Năm 1954, Ngô Văn Bưu được cử sang học tại trường Đại học Địa chất Thăm dò Mátxcơva, Liên Xô. Trong học kỳ đầu năm thứ nhất (1955-1956), các ông học tiếng Nga, đến học kỳ hai chương trình học có thêm các môn Toán, Lý và Hóa. Ông nhớ có một lần cô giáo dạy Toán gọi ông lên làm bài tập, thấy ông làm nhanh, gọn và rõ ràng, cô muốn ông sẽ học toán-cơ, mặc dù ông đã được phân công học vật lý cùng với Đào Nguyên Vọng Đức[1]. Sau đó khi được hỏi nguyện vọng, ông xin học một ngành kỹ thuật liên quan đến vật lý, và ông được phân học Địa vật lý tại trường Đại học Địa chất Thăm dò Mátxcơva.
Trong thời gian học tập tại trường, thấy các sinh viên Việt Nam chăm chỉ, cần cù, ham học nên các thầy cô giáo người Nga rất quý và hết lòng giúp đỡ. Học xong các môn cơ bản, đến năm thứ ba, lớp ông bắt đầu học các môn chuyên ngành do GS.TSKH Iu.V.Iakubốpxki giảng dạy – người khởi xướng việc nghiên cứu phương pháp trường chuyển trên mặt đất.
Bài giảng của thầy Iu.V. Iakubốpxki được trình bày rõ ràng, hấp dẫn, dễ hiểu nên học viên rất chăm chú nghe giảng. Ngô Văn Bưu lại thường tranh thủ hỏi thêm thầy sau giờ học, được thầy giải thích cặn kẽ và chi tiết những điều còn thắc mắc. Nhận thấy cậu sinh viên người Việt ham tìm hiểu, thầy đã đưa ông vào nhóm nghiên cứu khoa học của trường. Tình cảm thầy trò trở nên thân thiết, ông được tiếp xúc với thầy nhiều hơn, được cùng thầy đến Phòng thí nghiệm thăm dò điện, nơi đó thầy có một phòng làm việc nhỏ bên cạnh để làm việc và có thể giảng giải cho ông đầy đủ hơn những gì ông chưa rõ.
Ở trường Đại học, bên cạnh học lý thuyết, nhà trường còn có chương trình cho sinh viên đi thực tế ở nhiều địa điểm khác nhau: Học “trắc địa” ở ngoại ô Zagocxki cách Trung tâm Mátxcơva 63 km, mùa hè năm 1957; Học “vẽ bản đồ địa chất” tại Bactrixarai ở Tây-Nam bán đảo Crimê, mùa hè năm 1958; Dùng phương pháp địa vật lý để “tìm kiếm vàng”, địa điểm dọc theo con sông Ênixây, miền Bắc Sibêri, năm 1959. Ông nhớ lúc đó, Sibêri đang là mùa hè nhưng thời tiết cũng rất lạnh do khu vực này gần cực Bắc. Đoàn thực tập phải đi thuyền để tới địa điểm khảo sát, khi lên đến bờ, ông thấy một điều rất lạ là mọi người dân ở đây đều đeo mặt nạ, tay bôi dầu nhờn để tránh muỗi. Đoàn khảo sát khi đó phải ở ngoài trời, mọi người phải dựng bạt, dùng điện để sưởi, nằm trong túi ngủ chỉ hở mặt ra ngoài, đêm lạnh có mũ chụp mặt để tránh rét.
Nhóm sinh viên thực tế học “trắc địa” tại ngoại ô Zagocxki, mùa hè năm 1957
Từ trái qua: Ngô Văn Bưu (đứng máy), Phạm Xuân Hoàng, Hồ Quang Phong, Nguyễn Văn Chữ, Hồ Đắc Hoài.
Sang năm thứ tư, thầy Iu. V. Iakubốpxki hướng cho ông nghiên cứu về phương pháp trường chuyển, ông được đi thực tập ở miền Nam Uran để thực hiện luận văn tốt nghiệp, Đề tài: “Khảo sát mỏ quặng đồng kolcheđan ở Nam Uran bằng phương pháp trường chuyển, thiết kế đo vẽ tỉ mỉ”. Ông được tiếp xúc với một phương pháp địa vật lý mới đang trong giai đoạn đầu phát triển – nghiên cứu và sáng chế máy trường chuyển để có thể phát hiện ra thân quặng dẫn điện tốt, nằm sâu trong lòng đất, cũng do thầy Iu. V. Iakubốpxki khởi xướng.
“Thầy muốn tôi tiếp cận địa vật lý không chỉ ở mặt đất mà còn cả ở trên không. Mùa hè 1960, chúng tôi được đi thực tập ở khu vực phía Nam Uran. Đây là vùng quân sự của Liên Xô, khu vực cấm đối với người ngoại quốc. Thầy dặn chúng tôi phải nói với công an mình là khách du lịch chứ không phải đi thực tập nên tôi mới vào được vùng này. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy đó là điều rất nguy hiểm với thầy nếu như bị phát hiện. Khi đến nơi, máy bị hỏng, phát ra những tín hiệu lạ, thầy trực tiếp lên kiểm tra…”- GS Ngô Văn Bưu rất xúc động khi nhớ lại.
Ngô Văn Bưu đã tranh thủ tận dụng thời gian vàng ngọc trong môi trường thuận lợi để học tập, thực tập, đi thư viện, mua sách cũ tham khảo nên kết quả các môn học, ông đều xếp loại xuất sắc. Ông bảo vệ thành công luận văn tốt nghiệp tại trường Đại học Địa chất Thăm dò Mátxcơva với tấm Bằng đỏ (No.756703).
Tốt nghiệp Đại học, kỹ sư Ngô Văn Bưu về nước làm công tác giảng dạy tại Bộ môn Địa chất, Khoa Mỏ-Luyện kim, trường Đại học Bách khoa năm 1961, rồi giữ chức Quyền Tổ trưởng Bộ môn Địa vật lý, trường Mỏ-Địa chất (từ 12-1966). Năm 1969, ông được cử sang Liên Xô làm luận án Phó Tiến sĩ. Đây là lần thứ hai, ông có cơ hội được làm việc và học tập ở xứ sở bạch dương.
Với những kiến thức ban đầu về “trường chuyển”, ông tiếp tục lựa chọn nghiên cứu về phương pháp này để làm đề tài luận án dưới sự hướng dẫn của thầy giáo cũ là GS.TSKH Iu.V. Iakubốpxki cùng PGS.TS P.P. Makagonốp. Thầy rất ngạc nhiên vì các đề tài của ông từ khi làm luận văn tốt nghiệp Đại học đến luận án Phó Tiến sĩ, ông đều nghiên cứu về phương pháp trường chuyển – một phương pháp hiện đại mà Liên Xô đang nghiên cứu lúc bấy giờ.
Để có số liệu làm luận án, ông phải làm việc rất nhiều giờ ở phòng máy tính để xử lý số liệu và tính toán. Nhưng việc đăng ký phòng máy để nghiên cứu không đơn giản vì cả trường chỉ có 2 máy ODRA. Nên cứ cuối tuần, ông lại xin đăng ký làm việc cùng một lúc cả 2 máy tính ở hai phòng.
Dưới dự hướng dẫn tận tình của hai thầy giáo, ngày 18-12-1972, KS Ngô Văn Bưu đã bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sĩ, Đề tài “Nghiên cứu lý thuyết trường chuyển trong môi trường hai lớp dẫn điện, có từ tính với ranh giới phẳng và cầu” tại trường Đại học Địa chất Thăm dò Mátxcơva. Luận án của ông được Hội đồng đánh giá cao. Trong trang 6 của Bản tốc ký ghi ý kiến của Hội đồng ( tiếng Nga), PGS.TS Makagonốp P.P. đã đánh giá như sau : “…Theo tôi, Iu.V. Iakubốpxki đã nói hết cả. Thực vậy, Ngô Văn Bưu đã làm việc nhiều và đã hoàn thành việc hầu như không thể thực hiện nổi trong thời gian 3 năm, đã nghiên cứu một đề tài nghiêm túc, to lớn và kết quả thu được thực tế là quan trọng cho khoa học. Ở đây có một số kết quả quan trọng về mặt phương pháp luận. Có thể nêu ra những kết quả liên quan tới những thuật toán đã được xây dựng để tính trường cũng như các kết quả bỏ đi được một trong số các tham số, nghĩa là tách ra được vùng tương đương. Nhiều kết quả hiện giờ đã đi vào thực tiễn và đã được dùng trong công tác thực địa trong phương pháp trường chuyển. Những kết quả đó được dùng trong các đơn vị như “KazVIRT”. Một phần những kết quả đó được đưa vào quy trình sử dụng phương pháp trường chuyển, hiện đang được soạn thảo. Tôi chỉ một lần nữa đề nghị Hội đồng đánh giá tích cực những kết quả của luận án này...”[2].
Trang 6 của Bản tốc ký
Còn Giáo sư Tumarkin nhận xét: “Chúng tôi muốn nhấn mạnh trình độ toán học cao của luận án. Ở đây đã nêu rõ rằng đã giải quyết được bài toán phức tạp nhất mà nghiệm của nó thu được không chỉ dưới dạng các tích phân mà điều quan trọng là đã đi tới các kết quả bằng số và ở đây rõ ràng thấy lại một lần nữa công sức đồ sộ mà Ngô Văn Bưu đã thực hiện để thu được chính các nghiệm đó. Tất cả các công việc đã thực hiện trực tiếp trên máy tính. Nếu tính số giờ máy tính đã được dùng để tính toán thì có lẽ vài trăm giờ, nhưng không phải là những số giờ vô bổ mà Ngô Văn Bưu mỗi lần lên máy tính đã sẵn bài toán với chương trình…” [3]
Lần thứ ba PTS Ngô Văn Bưu sang Liên Xô, đó là vào đầu năm 1981 khi ông được cử sang làm luận án Tiến sĩ. Nhận được quyết định, ông vừa phấn khởi nhưng cũng cảm thấy thật “lo lắng” vì thời hạn quy định chỉ có 2 năm, mà luận án Tiến sĩ phải mất 3 năm làm việc chăm chỉ mới có thể hoàn thành được.
Ông tiếp tục chọn đề tài về trường chuyển để nghiên cứu, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Makagonốp P.P.. Phó Giáo sư rất ủng hộ và nhất trí hướng nghiên cứu về trường chuyển, một lĩnh vực đang phát triển mạnh, được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực, đặc biệt là đầu những năm 80.
PTS Ngô Văn Bưu (phải) cùng Nguyễn Đức Trạch
tại Thư viện Lênin, Mátxcơva, ngày 30-8-1981
Để đảm bảo tiến độ nghiên cứu, PTS Ngô Văn Bưu thường xuyên đến Thư viện Lênin tham khảo tài liệu, làm việc nhiều giờ ở phòng máy tính hơn, thậm chí ngay cả hôm có bóng đá quốc tế – một môn thể thao ông rất hâm mộ, ông cũng không dám xem. “Mồng 2 Tết lại bắt đầu làm việc hết sức bình thường, anh làm việc ở Thư viện Lênin đến 10 giờ tối…”[4]; “Suốt mùa hè này, anh phải tranh thủ làm việc vì hè người ta đi nghỉ và đi công tác nhiều nên có thể tranh thủ xin thêm nhiều giờ làm máy tính. Có tuần anh xin được 8 giờ. Còn trong học kỳ chỉ xin được 2 đến 3 giờ thôi…rất mệt nhưng anh vẫn phải cố gắng làm việc…”[5].
Trong luận án Phó Tiến sĩ, ông đã giải quyết được một số bài toán cơ bản bằng phương trình toán – lý cổ điển, đến luận án Tiến sĩ, ông phải dùng phương pháp mô hình hoá toán học để giải quyết các bài toán với yêu cầu cao hơn, phức tạp hơn. Để hoàn thành được luận án, ông phải mất thêm nhiều thời gian để kiểm tra cho chuẩn xác “…Tối hôm qua, anh đã nhờ các chú xem lại bản đánh máy, sửa chữa đến 12h đêm, sau đó anh tiếp tục phải sửa đến 6h sáng. Anh đi ngủ được một lúc đến 10h sáng lại phải mang đi nộp. Làm việc khá căng thẳng..”[6].
Miệt mài, say mê nghiên cứu, cộng thêm sự “ưu ái” của thầy hướng dẫn và những lá thư động viên, khích lệ của người vợ ở quê nhà, năm 1983, PTS Ngô Văn Bưu đã bảo vệ thành công luận án TSKH, Đề tài “Luận chứng lý thuyết cho việc áp dụng phương pháp trường chuyển trong khảo sát tỉ mỉ và đánh giá dự đoán tài nguyên quặng pyrit đặc sít ở Tây Bắc Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Mặc dù không trực tiếp là người hướng dẫn, chỉ là người phản biện luận án Tiến sĩ của PGS.PTS Ngô Văn Bưu nhưng GS.TSKH Iu. V. Iakubốpxki luôn theo dõi và dành cho ông những sự quan tâm đặc biệt: “Sau buổi bảo vệ, thầy Iakubốpxki gọi tôi ra ngoài hành lang và hỏi: Thầy có thể giúp gì cho em được nữa không? Đất nước em sau chiến tranh còn rất nghèo. Rồi thầy rút trong túi ra đưa cho tôi một ít tiền. Tôi cảm ơn thầy và không nhận số tiền trên. Sau đó thầy đã tặng tôi một bộ ấm chén để làm quà. Mỗi khi dịp Tết đến hay có khách quý, tôi mới đem ra dùng. Ai cũng hỏi tôi ở đâu ra có bộ ấm chén đẹp thế. Tôi tự hào trả lời rằng: Của thầy hướng dẫn tặng”– GS Ngô Văn Bưu cho biết.
Những kết quả nghiên cứu đều được ông áp dụng trong thực tế khi về nước: Tìm kiếm mỏ sắt Thạch Khê- Hà Tĩnh; Tìm kiếm nước ngầm; Đề xuất dùng phương pháp trường chuyển ở biển để khảo sát dầu khí trong đá móng ngoài khơi Việt Nam tại Hội nghị khoa học Địa vật lý toàn quốc năm tại Hà Nội[7] . Bản thảo Đề mục từ “Phương pháp trường chuyển” trong Bách khoa thư Địa chất đang biên soạn, cũng vừa được ông hoàn thành.
Ba chuyến đi, ba giai đoạn học tập, nghiên cứu tại trường Đại học Địa chất thăm dò Mátxcơva với phương pháp trường chuyển, đã để lại trong tâm trí GS.TSKH Ngô Văn Bưu những kỷ niệm không thể phai mờ. Sự kiên trì, thuỷ chung của ông với hướng nghiên cứu này một phần là cái duyên của ông với trường chuyển, nhưng có lẽ cũng xuất phát từ những tình cảm tốt đẹp mà đất nước và con người Xô viết nhân hậu đã dành cho ông.
Hoàng Thị Liêm
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam
[1] GS.VS Đào Nguyên Vọng Đức, nguyên Viện trưởng Viện Vật lý