Tiến sĩ Dũng hướng dẫn bà con nông dân gieo lúa khô
tại vùng đất trước đây bỏ hoang tại xã Thủy Bằng
Thầy Dũng “nguyên chủng”
Giữa cơn mưa vừa ngớt của những ngày cuối đông, hình ảnh thầy Dũng hằng ngày âm thầm gieo từng hạt lúa xuống vùng đất khô cằn xã Thủy Bằng, tỉnh Thừa Thiên – Huế đã không còn xa lạ với bà con nơi đây.
Trên giảng đường, đồng nghiệp, bạn bè, sinh viên gọi ông là nhà nông học, nông dân thời @. Nhưng khi về với ruộng đồng, bà con nông dân gọi ông với cái tên trìu mến là thầy Dũng “nguyên chủng”. Sở dĩ thầy Dũng có tên này bởi vì chính thầy cùng nhóm nghiên cứu đã lai tạo, phục tráng thành công nhiều giống lúa nguyên chủng, nhiều giống lúa mới cho vùng đất trung du, đồi núi, vùng đất ngập lũ tại tỉnh Thừa Thiên – Huế và các tỉnh miền Trung. Trong đó phải kể đến các giống lúa: NH1, NH2, NH3, NH4, NH5, NH6. Đây là những giống lúa có đặc tính chống sâu bệnh, phù hợp với điều kiện khắc nghiệt ở vùng đất này.
Dẫn tôi tham quan ruộng lúa đang bước vào giai đoạn gieo mầm để chọn giống, “Tiến sĩ lúa” không ngớt lời ca ngợi những “đứa con đẻ” mình đang nghiên cứu: “Chú ngó rứa chứ khi thành công loại này chịu hạn phải biết, không tin vào hỏi mấy hộ dân ở thôn Nguyệt Biều ni là biết liền à. Riêng loại lúa Razư, A Ri, Cu giơ, Căn người là thích hợp nhất ở những vùng núi, trung du. Nếu trồng tốt sẽ giải quyết 2 vấn đề giúp bà con nông dân đang cần đó là: Trồng lúa 2 vụ ở những vùng đất cao, vùng gò đồi. Thứ hai chống chọi việc thường xuyên thiếu nước ở vụ Hè Thu. Tưởng thầy nói đùa, ai ngờ khi trực tiếp tham gia vào nghiên cứu sản xuất lúa cùng thầy Dũng và nhóm nghiên cứu, những nông dân ở vùng gò đồi thôn Nguyệt Biều, xã Thủy Bằng như “tận mắt bắt được vàng”. Bởi lẽ từ đời cha ông của họ đến nay, vùng đất này chỉ có thế gieo cấy lúa được một vụ Đông Xuân. Bây giờ khi thầy “Dũng nguyên chủng” xuất hiện, mọi tập quán canh tác trên vùng đất này đã được thay đổi.
Ngoài việc trồng lúa khô trên hàng chục ha đất đồi bỏ hoang, bằng kiến thức được tích lũy qua gần 40 năm đứng trên bụt giảng, trên ruộng, nương, rẫy thầy đã chỉ bảo cho bà con nơi đây trồng thêm khoai từ, khoai tía bằng công nghệ mới để thoát nghèo. Ông Lê Văn Cư ở xã Thủy Bằng kể: “Trước đây cứ đến vụ Hè Thu cả gia đình tôi phải đi mua gạo, vì lúa chỉ làm được một mùa, bây chừ khi được hợp tác cùng thầy Dũng và nhóm nghiên cứu Trường ĐH Nông Lâm Huế, bà con ở thôn ni ai cũng rất phấn khởi. Các giống lúa khô mới được thầy Dũng gieo trồng ở vùng này thu nhập từ 1,5 đến 2 tạ lúa trên 1 sào. Sướng nhất là vừa được xuống ruộng học hỏi kinh nghiệm kỹ thuật cùng thầy, vừa được thầy bồi dưỡng thêm ít tiền công, không có chi sướng bằng chú ơi”.
Là người “cháy hết mình với khoa học” nhưng thầy Dũng cũng rất nghiêm khắc với công việc mình làm, với quan niệm: Khoa học nông nghiệp là khoa học ứng dụng, đòi hỏi tính thực tế cao, phải lăn lộn cùng nông dân, miệng nói là tay phải làm, lúc đó nông dân mới hiểu. Là người từng thực hiện nhiều đề tài cấp nhà nước, mới đây nhất là đề tài “Khai thác và phát triển nguồn gen các giống lúa đặc sản cho các tỉnh miền Trung”, thầy “Dũng nguyên chủng” cũng giống như bao nhà nông học khác phải “thụt két tiền nhà” trước khi “chờ chi viện”. “Tui rất ghét kiểu làm nghiên cứu salon, cứ ngồi trong phòng máy lạnh mà phán, nhưng đôi khi lời nói thẳng, nói thiệt của mình lại khiến người khác không ưa, thôi thì cứ về với nông dân, về với ruộng đồng, để nhìn thấy bà con làm ăn năm này khấm khá hơn năm trước, rứa là ưng ý lắm rồi” – “Tiến sĩ lúa” tâm sự.
Thầy Lê Tiến Dũng bên giống lúa mới
Tôi mắc nợ nông dân quá nhiều…
Để có được các loại giống lúa phù hợp với thời tiết đặc trưng của tiểu vùng sinh thái Thừa Thiên – Huế như lúa NH1, NH2, NH3, NH4, NH5, NH6, Tiến sĩ Lê Tiến Dũng và nhóm nghiên cứu Khoa Nông học, Trường ĐH Nông Lâm Huế kết hợp với HTX nông nghiệp Hương Long (TP. Huế) gieo trồng thử nghiệm theo mô hình liên kết 4 nhà: nhà khoa học, nhà quản lý, nhà nông và nhà kinh doanh. Tuy nhiên, điều khiến cho thầy Dũng và nhóm nghiên cứu đề tài giống lúa cho vùng ngập lũ gặp không ít khó khăn là sau khi tạo ra sản phẩm, bước tiếp theo là không đủ nguồn kinh phí để tiếp tục nghiên cứu theo hướng nhân rộng mô hình.
Riêng giống lúa NH3 đã được Viện Di truyền học nông nghiệp, Bộ NN&PTNT công nhận là giống lúa cấp quốc gia, với tên gọi là: DT68. Các giống lúa NH6, NH7, NH9 còn lại đang được Trung tâm Khảo nghiệm giống miền Trung tiến hành các thủ tục để công nhận giống lúa cấp quốc gia. Song, niềm vui lớn nhất đối với người làm khoa học như thầy Dũng là được bà con nông dân tin yêu sử dụng các chủng loại giống này gần 10 năm nay. Trong đó, lúa NH6 có năng suất 250kg/sào; thời gian sinh trưởng ngắn hơn giống Khang dân 3 – 5 ngày, giá bán trên thị trường khoảng 6.500 đồng/kg. Loại gạo NH6 có đặc điểm hạt dài, cơm thơm ngon, để lâu không bị cứng. Lúa NH3 thời gian sinh trưởng dài hơn giống Khang dân 3 – 5 ngày, năng suất thấp hơn Khang dân nhưng có khả năng kháng sâu rầy tốt, không bị đổ ngã. Ông Nguyễn Sĩ Sà – Chủ nhiệm HTX nông nghiệp Hương Long, TP. Huế cho biết: Đây là các giống lúa được lai tạo đột biến trong số 200 giống lúa đang được Khoa Nông học thử nghiệm. Sau khi tổ chức hội nghị đầu bờ, nhiều nông dân ở phường Kim Long, xã Hương Long (TP. Huế), thị xã Hương Thủy, Hương Trà… đã đăng ký giống lúa NH3 và NH6 để sản xuất đại trà trong nhiều năm qua.
Khi được hỏi vì sao thầy lại mải mê đi tìm giống lúa mới, thầy chỉ mỉm cười rồi “chốt” lại một câu rằng: “Mình đã mắc nợ nông dân quá nhiều. Cả đời tui sợ nhất là nợ tiền, thứ hai là sợ mắc nợ những lời hứa với bà con nông dân mà cả cuộc đời mình đang cố gắng đền trả” – thầy Dũng nói.
Trang Hạ
Nguồn: daidoanket.vn/index.aspx