Ngay từ hồi học tiểu học, Nguyễn Văn Nhân thường được theo cha đến Bệnh xá khu Đồn Vàng, Phú Thọ. Mỗi lần như vậy, được nhìn thấy cha khám chữa bệnh cho bệnh nhân cùng với đôi bàn tay khéo léo thích làm thủ công, cậu bé Nhân đã mơ ước trở thành một bác sĩ như cha. Ước mơ ấy nhen nhóm và dần trở thành hiện thực.
Tấm giấy “thông hành” đặc biệt
Năm 1945, Nguyễn Văn Nhân thi đỗ trường Y, khóa đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám. Cũng năm này, chàng tân sinh viên Nguyễn Văn Nhân kết duyên cùng cô bạn hàng xóm Đinh Thị Loan.
Nhằm đáp ứng nhu cầu của cuộc kháng chiến, các sinh viên y khoa được huy động phục vụ trong quân đội, kể cả khi chưa tốt nghiệp. Trường hợp Nguyễn Văn Nhân đã được học thực hành ở Trạm Giải phẫu A do thầy Hoàng Đình Cầu, sau là thầy Nguyễn Hữu phụ trách không phải là ngoại lệ.
Tháng 3-1950, Nguyễn Văn Nhân nhận được lệnh nhập ngũ, biên chế vào Đại đoàn 304, phụ trách Ban quân y E57, sau đó ông là Đội trưởng Đội điều trị 4 của Đại đoàn. Lúc này bà Loan tuy đang mang bầu đứa con đầu lòng nhưng đã bỏ lại phía sau việc quản lý một xưởng than ở Hà Nội để theo chồng vào Thanh Hóa – nơi đóng quân của Đại đoàn 304. Niềm vui được làm mẹ không át được nỗi lo về trường hợp xấu có thể xảy ra khi sinh con vì bà Loan vốn bị bệnh tim (hẹp van 2 lá); gia đình chồng lại đang ở Phú Thọ, đi lại, ăn ở khó khăn. Gần đến ngày sinh, ông bà nghĩ đến việc xin trợ giúp của đơn vị. "Để gỡ thế bí, chúng tôi tính nước xin với Đại đoàn cho vợ tôi về ở nhờ nhà chị gái Đinh Thị Hương trong Hà Nội vừa để tiện theo dõi bệnh tim, vừa để chờ sinh con. Nguyện vọng và đề nghị của vợ chồng tôi được anh chị em Đội điều trị 4 tán thành và Đại đoàn cho phép. Hơn thế Đại đoàn còn cấp Giấy giới thiệu của Khu III và nhờ biệt động thành giúp đỡ việc ra vào"[1]. Nhờ đó, bà Loan đã dễ dàng trở về Hà Nội và sinh con rất thuận lợi. Cậu con trai đầu lòng được đặt tên là Nguyễn Văn Trung. Hết thời gian ở cữ, con đã cứng cáp, hai mẹ con bà Loan lại ra vùng tự do đoàn tụ gia đình. Trong khối hơn 10.000 tư liệu hiện vật GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân tặng Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam có một Giấy giới thiệu được ép plastic cẩn thận. Giấy giới thiệu do ông Nguyễn Văn Xước – Ủy viên thường trực Ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu III ký, gửi các Trưởng ty Công an Hà Nam-Hà Đông-Ninh Bình ngày 4-8-1951, có viết: "Về trường hợp đặc biệt, chúng tôi đồng ý cho bà Đinh Thị Loan, vợ y sĩ Nguyễn Văn Nhân, được vào Hà Nội để đem một cháu trai là con của hai ông bà Nhân ra vùng tự do. Y sĩ Nhân hiện đang phục vụ ở ngành Quân y, rất tích cực trong công tác, đủ bảo đảm cho bà Đinh Thị Loan. Bà Loan về lưu lại ở Hà Nội độ hai tháng và khi ra sẽ mang theo một số vật dụng…Yêu cầu các ông đồng thời với sự kiểm soát sự đi về theo thường lệ, giúp đỡ bà Loan về mọi phương diện để bà có thể vào đưa cháu bé ra vùng tự do".
Vợ chồng BS Nguyễn Văn Nhân và 4 con nhỏ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám năm 1955 (ảnh trái)
và Tấm giấy thông hành "đặc biệt" (ảnh phải)
Lần thứ hai sinh con (sinh đôi), bà Loan tiếp tục được đơn vị tạo điều kiện về Hà Nội để đảm bảo an toàn. Lần chia tay này khá đặc biệt với hai ông bà, bởi với Nguyễn Văn Nhân ngoài trọng trách của một người chồng đối với vợ thì còn có thêm sự chọn lựa giữa đi về thành hay ở lại vùng tự do. Trong cuốn Hồi ký năm 1996, GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân viết: "Trời đã về chiều tôi và Lê Minh Tường[2] đưa vợ tôi và em Bê đến sát mép nước, bờ bên này để xuống đò. Vợ tôi không chèo kéo, nhưng cả 2 chị em nước mắt đầm đìa…bước xuống con đò nhỏ. Tất cả chúng tôi lòng nặng trĩu buồn nhưng không dám dùng dằng lâu".
Nhớ lại cảnh vợ chồng bịn rịn chia tay ở bến đò vượt qua sông Đáy, khi bà Loan về Hà Nội sinh con lần thứ 2, Nguyễn Văn Nhân vẫn luôn tự đặt câu hỏi: Tại sao lúc đó ông không bước xuống đò "sang ngang" cùng vợ về Hà Nội? Bởi trước đó, khi về Hà Nội sinh con lần thứ nhất, qua bà Loan các thầy trong nội thành ngỏ ý nếu Nguyễn Văn Nhân về Hà Nội, các thầy sẽ giúp để được sang Pháp học nâng cao. Giáo sư Nhân lý giải: "Lý do xác đáng và dễ thấy hơn cả là thái độ hoàn toàn tin cậy của tập thể anh chị em ở Đội điều trị 4 và của lãnh đạo-chỉ huy Đại đoàn 304 lúc đó với tôi… Có lẽ chính sự chân thành tin tưởng đó, đã ngầm giúp tôi tự xác định được bước chân quay lại của mình. Và có lẽ chính suy nghĩ ấy đã giúp được vợ tôi, tuy trong hoàn cảnh chia ly đau buồn cao độ nhưng vẫn không một lời hoặc một hành động nhỏ để níu kéo tôi cùng sang ngang"[3].
Nguyện cống hiến hết mình
Sự tin tưởng, giúp đỡ của Đại đoàn là động lực giúp Nguyễn Văn Nhân nguyện đem hết những kiến thức chuyên môn, tâm huyết cứu chữa thương binh, dù trong điều kiện phương tiện phục vụ cho công tác điều trị, và khám chữa bệnh thiếu thốn rất nhiều.
Với cương vị là Đội trưởng Đội điều trị 4, Đại đoàn 304, Nguyễn Văn Nhân trực tiếp phụ trách mổ, điều trị cho thương binh của Đại đoàn trong mỗi chiến dịch. Nguyễn Văn Nhân không thể nhớ hết đã mổ cho bao nhiêu thương binh, chỉ biết rằng đôi bàn tay ông dường như không bao giờ được nghỉ. Có những chiến dịch thương binh vận chuyển về nhiều, Nguyễn Văn Nhân phải đứng mổ 2-3 đêm liền, chân bị sưng phù. Hàng trăm, nghìn bệnh nhân qua Đội điều trị 4 do y sĩ Nguyễn Văn Nhân điều hành đều nhanh chóng phục hồi trở về đơn vị chiến đấu.
Những năm tháng "không thể quên" của GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân
Trong số các ca mổ y sĩ Nhân đã thực hiện, có một ca mổ bụng đầu tiên mà ông nhớ nhất. Đó là một kỷ niệm ông "không thể quên". GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân kể: “Thời kỳ ấy tôi phục vụ ở Đại đoàn 304, mỗi một chiến dịch có hàng nghìn chiến sỹ bị thương, mà cả Đại đoàn chỉ có một mình tôi lúc bấy giờ là sinh viên năm thứ tư, chưa có bằng cấp nhưng được phong làm y sĩ và phụ trách mổ "từ đầu đến chân". Ca mổ đầu tiên làm tôi nhớ mãi là ca mổ cho một cậu thương binh trẻ bị nhiều vết đạn vào dạ dày và ruột. Sau khi mổ xong, tôi yêu cầu anh em mang chõng của tôi ra để tôi được nằm cạnh thương binh vì tôi lo sợ ca đầu tiên chưa biết sống chết thế nào. Vì mổ dạ dày và ống tiêu hóa nên bệnh nhân không được uống nước trong vòng từ 24-48 tiếng sau mổ, khi bộ máy tiêu hóa chưa làm việc được. Tôi cấm không cho bệnh nhân uống nước nhưng do mất máu, khát nước, cậu lính trẻ không kiềm chế được mình đã chửi bới tôi om sòm. Trong đình có một hồ trồng sen, nhân lúc tôi không để ý, cậu ấy chạy thẳng ra hồ nhảy xuống để uống nước. Ca ấy thì tôi nhớ suốt đời, vừa mổ xong, nước hồ thì đâu có sạch, vớt được cậu ấy lên, làm vệ sinh vết mổ, tôi chắc là cậu ấy sẽ chết, nhưng may mà cậu ấy sống. Kể cũng kỳ lạ. Con người ta đôi khi có những sức mạnh khó lý giải được.” [4]
Với những thành tích của Đội điều trị 4, Đội trưởng – y sĩ Nguyễn Văn Nhân vinh dự được Đại đoàn tuyên dương và bầu đi dự Đại hội Chiến sĩ thi đua toàn quân lần thứ nhất, tổ chức tại Việt Bắc từ ngày 12 đến 18-4-1952. Dịp đó, Nguyễn Văn Nhân được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến sĩ hạng Nhất và được Đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng một bức ảnh chân dung có ghi "Thân tặng" và chữ ký của Đại tướng.
Thời gian hoạt động 4 năm (1950-1954) ở Đội điều trị 4 đã để lại trong tâm trí y sĩ Nguyễn Văn Nhân những kỷ niệm không thể phai mờ không những trong công tác điều trị cho thương binh mà còn trong học tập chuyên môn. Đặc biệt, chính sự quan tâm, tạo điều kiện của đơn vị như động lực giúp Nguyễn Văn Nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ. Xin được trích lời của GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân để nói lên tình cảm của ông đối với Đại đoàn 304 như một phần đáp lại sự tin tưởng của đơn vị dành cho ông: “Nếu được sống một cuộc đời nữa, tôi cầu mong được sống lại những năm tháng như tôi đã sống ở Đội Điều trị 4, Đại đoàn 304”[5].
Hoàng Thị Liêm