Từ những kỷ niệm thuở học trò
Ngay từ khi cắp sách đến trường, được ảnh hưởng từ phong thái, nhân cách của những người thầy, Nguyễn Văn Xuyến đã ước mong sau này mình cũng sẽ được đứng trên bục giảng như thế. Trong những người thầy ông nhớ nhất là thầy Hiệu trưởng trường Tiểu học – Trịnh Quang Nhuận. Thầy giảng bài hay cùng giọng nói ấm áp, thấm sâu vào lòng người. Thầy rất thương học trò, lại đàn hát hay. Có những buổi cùng các bạn đến giúp thầy cộng sổ điểm, được thầy nấu chè cho ăn, rất tình cảm mà đến bây giờ ông vẫn không quên.
Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, Nguyễn Văn Xuyến học cấp 2 trường Tố Như, một ngôi trường nằm ở xã Hoằng Lộc, cách nơi ở của ông chừng 3 cây số. Thời gian học tập ở đây, ông nhớ nhất là thầy giáo Lê Huy Hoành – một giáo viên dạy văn, quê ở làng Quỳnh Trữ, huyện Hoằng Hóa. Thầy Hoành có kiến thức sâu rộng, mặc dù là giáo viên dạy văn nhưng khi thiếu giáo viên thì thầy có thể chuyển sang dạy toán. Thầy Lê Huy Hoành không chỉ dạy học trò về kiến thức, mà còn dạy về cách làm người, đối nhân xử thế. Ấn tượng là bài học về cách ứng xử giữa người với người: “Một đồng nhân nghĩa trao tay/ Khác của bố thí rẻ thay tình người”; thầy giảng giải: cũng là giúp đỡ ủng hộ người khác, nhưng cách cho thế nào để người nhận cảm thấy vui vẻ khác với cách cho mà người ta cảm thấy tủi hổ, như được bố thí. Những lời dạy đó cứ theo ông đi suốt cuộc đời. Ông còn nhớ như in giọng điệu của thầy Hoành khi giảng về thơ Chinh phụ ngâm, vừa đọc thơ, tay thầy dùng phấn minh họa lên bảng, vừa tượng thanh tượng hình, làm cho học trò hình dung được bối cảnh tang thương của chiến trường sau trận đánh. Sau khi Nguyễn Văn Xuyến đi học ở Liên Xô được vài năm, thầy Hoành bị ốm và mất, ông không bao giờ còn được gặp lại thầy. Bày tỏ những cảm xúc dồn nén của mình với thầy Lê Huy Hoành, ông viết đã viết những câu thơ đầy xúc động:
“Thầy Hiệu trưởng Lê Huy Hoành
Dạy người, dạy chữ nổi danh xa gần
…
Một lần giảng Chinh phụ ngâm
Nghệ tinh tâm huyết, chẳng nhầm thầy tôi
Đã xa sáu chục năm xưa
Mà con cứ ngỡ hôm qua học thầy
Những điều chỉ giáo thật hay
Đối nhân xử thế còn đây dạ này
Một đồng nhân nghĩa trao tay
Khác của bố thí rẻ thay tình người
Nhục, vinh phân biệt rạch ròi
Kẻo mà tiếng xấu để đời, nghe con!
…
Đường đời không ít cam go
Cương nhu ứng xử sao cho vẹn tròn
Răng cứng rụng, lưỡi mềm còn
Tâm, Đức, Trí, Dũng giúp con trưởng thành”[1].
Khi lên cấp 3, những thầy giáo như thầy chủ nhiệm Phạm Cúc dạy sử; thầy Nguyễn Bá Thảo dạy Hóa học đã khơi dậy niềm đam mê trong ông và khiến ông nguyện gắn bó với Hóa học cả đời. Tốt nghiệp cấp 3, năm 1962, ông là một trong những học sinh xuất sắc được lựa chọn đi học tập tại Liên Xô. Nhưng vẫn còn mãi trong ông kỷ niệm: “Lam Sơn Thanh Hóa trường tôi đó/ Xứ sở anh hùng, xứ đại khoa”[2].
Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Kishinhốp là nơi đã rèn rũa, tôi luyện con người Nguyễn Văn Xuyến cả tài và đức để ông vững vàng đứng trên giảng đường Đại học. Người có ảnh hưởng lớn nhất tới Nguyễn Văn Xuyến trong thời gian học Đại học Tổng hợp Quốc gia Kishinhốp chính là bà giáo hướng dẫn Valentina Ariépna Xipliacôva (lúc đó bà là PGS.TS về Hóa học). Bà đã hướng dẫn sinh viên Nguyễn Văn Xuyến làm đồ án tốt nghiệp một cách tận tình, chu đáo, nhất là trong những lần làm thí nghiệm, bà đều tỉ mỉ và ân cần. Bà còn mua tặng ông những cuốn sách để nâng cao kiến thức về ngoại ngữ cũng như là chuyên môn. Năm 1967, sau khi Nguyễn Văn Xuyến tốt nghiệp Đại học và chuẩn bị lên đường trở về Việt Nam, bà Valentina Ariépna Xipliacôva không đi tiễn Nguyễn Văn Xuyến được vì đang nằm viện nên đã nhắn ông đến bệnh viện và bà đã căn dặn trò một cách chân tình. Trong buổi chia tay ấy có cả những giọt nước mắt của bà, như một người mẹ khi chia tay đứa con. Hình ảnh ấy cứ theo mãi trong ông, để sau này, ông cũng coi học trò của mình như những người em, người con, người cháu.
Trước khi tốt nghiệp Đại học, ông đề đạt nguyện vọng được xin về trường Đại học Tổng hợp Hà Nội dạy học, nhưng lúc đó do trường Đại học Bách khoa Hà Nội thiếu giảng viên nên ông tự nguyện nhận nhiệm vụ theo sự phân công. Kể từ năm 1967 trở đi, gần 50 năm, ông miệt mài đưa đò qua sông và chưa lúc nào cảm thấy mình mệt mỏi, chán nản. Nói như ông, những năm tháng học đại học đã rèn cho “sắt hóa thành kim”:
“Năm năm học tập gắng dùi mài
Sắt mới thành kim vui sướng thay
Bách khoa Hà Nội tôi neo đậu
Mải miết lái đò cho tới nay”3].
Đến hạnh phúc làm thầy
Với GS.TSKH Nguyễn Văn Xuyến, nghề giáo có một ý nghĩa cao quý, là nghề mà thường xuyên được tiếp xúc và dẫn dắt các học trò, những người trẻ trung, năng động, sáng tạo. Ông quan niệm, đối với học trò, ông không chỉ là người thầy dạy mà đôi khi còn học được ở trò những ý tưởng, suy nghĩ của thời đại. Mối quan hệ thầy trò luôn luôn “cộng hưởng” về mọi mặt chứ không phải chỉ là sự tiếp nhận thụ động từ một phía.
GS.TSKH Nguyễn Văn Xuyến hướng dẫn học trò làm thí nghiệm, trường Đại học Bách khoa 2008
Trong thời gian làm nghiên cứu sinh (1977-1981) tại Liên Xô, Nguyễn Văn Xuyến còn nhớ câu nói của thầy hướng dẫn – GS Xưchốp A.YA: “Hãy đứng lên vai của thầy mà phóng đi”. Câu nói đó cứ đeo đuổi mãi trong suy nghĩ của Nguyễn Văn Xuyến. Để làm được “bệ phóng” cho trò, thầy phải là người đủ đức, đủ tài, đủ trí tuệ, là điểm tựa vững chắc cho học trò trưởng thành, phát triển. Bản thân ông khi còn là học trò đã may mắn có được những “bệ phóng” như vậy, đến phần mình, ông đã nỗ lực hết mình tạo điều kiện cho các trò bay cao, bay xa. Trong các nghiên cứu chung cùng sinh viên, ông luôn là điểm tựa vững chắc cả về mặt chuyên môn lẫn tinh thần để học trò có thể tự tin, khẳng định mình trong khoa học.
Cho đến nay, GS Nguyễn Văn Xuyến đã hướng dẫn 51 cử nhân, kỹ sư tốt nghiệp đại học, 22 thạc sĩ, 10 tiến sĩ. Ngoài ra, có 4 học trò được ông giới thiệu làm nghiên cứu sinh ở Nhật Bản, Hàn Quốc. Sự thành công của các thế hệ học trò cũng là sự thành công đối với ông. Niềm vui, niềm hạnh phúc của ông là được các học trò nhớ tới với lòng quý mến chân thành. Ông còn nhớ, trong các hội nghị, hội thảo, có nhiều người nay đã giữ các vị trí quan trọng đến chào, ông không nhận ra họ, nhưng rồi sau biết đó là những học trò cũ của mình thì thật vui sướng và cảm động. Ông có quyền tự hào khi các lớp học trò luôn dành cho ông sự kính yêu và lòng biết ơn.Tập thể lớp sinh viên Công nghệ Hóa lý từng viết: “Tập thể lớp Công nghệ Hóa lý K51 chúng em luôn nhớ về thầy và nhớ về những bài giảng tâm huyết của thầy. Sau này dù đi đâu chúng em cũng vẫn luôn nhớ về những tình cảm, sự tâm huyết của thầy dành cho chúng em. Chúng em không biết nói gì hơn là nói cám ơn thầy. Chúng em sẽ luôn luôn cố gắng để không phụ lòng thầy”[4]. Hay một sinh viên từng nhận được lời khuyên của GS Nguyễn Văn Xuyến đã viết: “Ông chưa bao giờ trực tiếp dạy học cho cháu nhưng cháu luôn coi ông là một người thầy của mình…, ông đã dặn dò cháu rất nhiều, chi tiêu tiết kiệm, tránh xa cám dỗ… Và cháu vẫn còn nhớ một câu mà ông đã nói: “Không nói rằng người ta xấu, vì mình đã là gì đâu mà đánh giá người khác”… Thực sự thì những gì ông nói rất có ý nghĩa với cháu. Và cháu muốn gửi đến ông lời cảm ơn chân thành”[5].
Trong cuộc đời giảng dạy của mình, ông đã cống hiến trọn tâm sức cho nghề giáo, và thấy rất hạnh phúc vì đào tạo được nhiều thế hệ học trò. Niềm hạnh phúc đó vượt lên trên tất cả. Tâm sự ấy ông đã gửi gắm vào những vần thơ mộc mạc, chân thành:
“…Còn tôi chọn nghề lái đò
Khách là lớp lớp học trò đáng yêu
Trẻ trung, ham hiểu biết nhiều
Tiềm năng sáng tạo bao điều cao siêu
“Muốn sang thì bắc cầu Kiều”
Thầy trò cộng hưởng hai chiều bắc qua
…
Trò gắng học tập trưởng thành
Chủ nhân đất nước phồn vinh rạng ngời
Góp phần sự nghiệp trồng người
Là thầy phải đủ đức, tài, nghệ tinh
Vượt lên chính bản thân mình
Vững tay chèo lái an bình sang sông
Vượt qua sóng gió, bão bùng
Đưa đò cập bến thành công cùng trò”[6].
Với GS.TSKH Nguyễn Văn Xuyến, được làm thầy là niềm hạnh phúc đầy tự hào. Với chúng tôi, những nghiên cứu viên Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam, ông tâm sự cởi mở: Nếu thời gian có quay ngược trở lại thì ông vẫn không thay đổi lựa chọn của mình, bởi hình ảnh những người thầy vẫn luôn trọn vẹn đẹp đẽ trong ông và tình cảm của học trò với ông cũng rất đậm đà, sâu nặng.
Nguyễn Thanh Hóa