“Tôi không có gì tiếc nuối trong cuộc đời làm khoa học”

“Loanh quanh” con đường học hành

Có thể nói, khi kể về TS Nguyễn Văn Hải (1943) – nguyên Trưởng phòng Nghiên cứu Thiết bị Hàng không thuộc Quân chủng Không Quân, ngoài những công trình khoa học thì con đường “loanh quanh” trong học hành cũng là một điểm đặc biệt.

Câu chuyện “loanh quanh” trong con đường học hành bắt đầu từ năm 1960, sau khi Nguyễn Văn Hải học xong phổ thông, vì rất thích ngành vô tuyến điện nên Nguyễn Văn Hải đã thi vào trường Bưu điện (thuộc Bộ Giao thông và Bưu điện). Mặc dù ông trúng tuyển với 21 điểm, tuy nhiên không biết vì lý do gì mà Bộ Giao thông và Bưu điện quyết định chuyển ông sang học ngành Đường thủy trường Trung cấp Giao thông thủy bộ. Lúc đầu Nguyễn Văn Hải không thích và cảm thấy chán nản. Nhưng sau một thời gian tiếp xúc, khám phá được nhiều cái hay, kết quả học tập cũng được cho nên ông cảm thấy ngành này cũng có những cái lý thú riêng.

 "Tôi không có gì tiếc nuối trong cuộc đời làm khoa học" – TS Nguyễn Văn Hải tâm sự.

Tháng 5-1963, Nguyễn Văn Hải tốt nghiệp và được cử về Ty giao thông Hà Bắc làm cán bộ kỹ thuật tại Xưởng đóng thuyền với nhiệm vụ sửa chữa cano, đóng những con thuyền vận tải lớn trên 40 tấn. Đến năm 1964, Ty Giao thông Hà Bắc lại chuyển ông về làm Đội trưởng Đội khảo sát phá đá. Đội của ông chuyên đi khảo sát vẽ bản đồ của các dòng sông như sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam, phá đá khai thông luồng cho sông Thương (đoạn Bố Hạ), cào bùn khơi thông luồng cho sông Đuống (đoạn Phù Đổng)

Năm 1965, Nguyễn Văn Hải trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, được về Lữ đoàn dù 305. Là một pháo thủ nhưng do trước đây có nhiều kinh nghiệm sử dụng máy trắc địa nên ông lấy phần tử bắn rất nhanh, vì vậy trong các buổi hội thao ông luôn dẫn đầu. Đến tháng 9-1965, Nguyễn Văn Hải lại được cử đi học trường Trung cấp Đào tạo Sỹ quan bay và kỹ thuật Krasnođa Liên Xô và đây cũng chính là bước ngoặt để ông chuyển sang Không quân.

Tốt nghiệp loại ưu của trường Trung cấp Đào tạo Sỹ quan kỹ thuật, Nguyễn Văn Hải trở về nước. Một năm sau đó, ông lại được cử đi học kỹ sư ngành Thiết bị hàng không – ngành quan trọng thứ hai của Hàng không sau ngành Máy bay và động cơ (Học viện Không quân Giucôpxki, Liên Xô).Năm 1973 tôt nghiệp tháng 9 năm 1974, ông trở lại Học viện này làm nghiên cứu sinh, sau 2 năm rưỡi (sớm hơn nửa năm) thì Bảo vệ luận án Tiến sĩ (tháng 5-1977), khi về nước TS Nguyễn Văn Hải được phong thẳng từ thiếu uý lên thượng uý và được phân công làm việc trong phòng Máy bay (Cục kỹ thuật Không Quân).

Tham gia thiết kế ba chiếc máy bay đầu tiên của Việt Nam

Với mục tiêu xây dựng một đội ngũ cán bộ nghiên cứu và công nhân kỹ thuật ban đầu biết thiết kế, chế thử và tổ chức bay thử một số loại máy bay từ đơn giản đến phức tạp, ngày 22-2-1978 Thiếu tướng Đào Đình Luyện – Tư lệnh Không quân – Quân chủng Không Quân đã ký dự án “Xây dựng cơ sở thiết kế và chế thử máy bay cánh quạt loại nhỏ” và được Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng phê chuẩn cho triển khai.

Năm 1979, Viện Kỹ thuật Không quân được thành lập,TS Trương Khánh Châu là Viện trưởng còn TS Nguyễn Văn Hải giữ chức Trưởng phòng Thiết kế máy bay. Trong vòng 9 năm (1978-1987), với cương vị Phó Chủ nhiệm dự án ông đã tham gia tổ chức thiết kế, chế thử và bay thử thành công 3 kiểu máy bay đầu tiên của Việt nam gồm: TL-1, HL_1 và HL_2.

Máy bay huấn luyện HL-1 xuất xưởng tháng 1-1984 đang chạy trên đường băng

Chiếc thứ nhất, máy bay TL-1: Đây là loại máy bay được thiết kế để thực hiện nhiệm vụ trinh sát liên lạc mặt trận (viết tắt là TL). Máy bay có 4 chỗ ngồi và có hình dạng phỏng theo kiểu máy bay Raely 220 của Pháp. Tuy là sản phẩm đầu tay nhưng máy bay TL-1 cũng đã được thiết kế với yêu cầu kỹ thuật cao và các bước thiết kế, chế thử, bay thử được thực hiện theo đúng quy trình. Sau 2 năm thiết kế và chế tạo, ngày 25-9-1980 máy bay TL-1 đã cất cánh thành công lần đầu tiên tại sân bay Hòa Lạc. Với 102 phút trên không, 13 lần cất hạ cánh, máy bay TL-1 đã hoàn thành chương trình bay thử 2 giai đoạn là bay thử khả năng bay và bay thử tính năng bay. Sau khi bay thử thành công máy bay TL-1, Tổng Bí thư Lê Duẩn và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Văn Tiến Dũng đã xuống xem bay thử và động viên khen ngợi thành tích ban đầu của Viện.

Chiếc thứ hai, máy bay HL-1: Trên cơ sở những thành tựu đạt được, 9-1982 Bộ Quốc phòng đã chuyển nhiệm vụ “Thiết kế và chế thử máy bay cánh quạt loại nhỏ” thành một trong 23 chương trình tiến bộ khoa học kỹ thuật trọng điểm của Bộ mang tên “Chương trình thiết kế chế thử máy bay huấn luyện” mang mã số 660401. Máy bay HL-1 được thiết kế để sử dụng làm máy bay huấn luyện phi công sơ cấp, lúc cần thiết có thể dùng làm máy bay trinh sát liên lạc hoặc máy bay chỉ điểm mặt trận. Nhờ đúc rút được những kinh nghiệm lần trước, công việc thiết kế và chế thử được tổ chức theo một qui trình khoa học hơn. Các phương pháp tính toán được thực hiện chính xác hơn. Sau hơn 3 năm lao động, tháng 6-1984 máy bay huấn luyện 2 chỗ ngồi HL-1 đã được xuất xưởng.Kết quả bay thử cho thấy máy bay HL-1có tính năng kỹ chiến thuật và tính năng bay rất tôt,tương đương với các máy bay cùng loại đang đựơc sử dụng ở nước ngoài. Chế tạo thành công máy bay HL-1 mở ra khả năng có thể thiết kế chế thử không chỉ hạn chế ở mục tiêu học tập và đào tạo cán bộ mà còn có thể sử dụng sản phẩm vào phục vụ chiến đấu và huấn luyện của Quân chủng Không quân.

 Từ trái qua: KS Nguyễn Văn Hải; Trung tá, PTS Trương Khánh Châu; Đại úy, KS Cao Văn Bình

Chiếc thứ ba, máy bay HL-2: Theo chỉ thị trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, sản phẩm tiếp theo của chương trình chế thử máy bay là chế thử chiếc máy bay đậu nước có khả năng làm nhiệm vụ ở các đảo xa và có thể đồng thời cất, hạ cánh trên đường băng, trên mặt nước. Theo đó, chiếc HL-1 được cải tiến với một số thay đổi về góc lắp và góc vểnh cánh, góc lắp đuôi ngang, đồng thời thêm hệ thống phao đậu nước để máy bay có thể cất và hạ cánh trên mặt nước. Tháng 4-1987, máy bay đã được chế tạo xong và bắt đầu chương trình bay thử. Máy bay HL-2 đã được thử nghiệm xong phần xác định khả năng bay. Kết quả bay thử HL-2 cho thấy các tính toán đều chính xác, tính năng máy bay đã thay đổi theo dự kiến. Tính ổn định ngang của máy bay lớn hơn máy bay HL-1. Chương trình 660401 đã hoàn thành, trong vòng 10 năm Viện Kỹ thuật Không quân đã chế tạo thành công ba kiểu máy bay TL-1, HL-1, HL2.

Chế tạo thành công buồng tập lái máy bay

Năm 1991, do yêu cầu đào tạo phi công, Tổng cục Hàng không dân dụng đã tổ chức một cuộc hội thảo với ý đồ thu hút cán bộ khoa học từ các cơ quan nhà nước để nghiên cứu, chế tạo một buồng tập lái cho máy bay Tu-34. Kết thúc hội thảo, cả TSKH Nguyễn Đức Cương, TS Nguyễn Văn Hải và TS Trần Thế Việt đều cho rằng dự án không khả thi, các bài tập thử chỉ mang nặng những thủ thuật của công nghệ thông tin và công nghệ tự động hóa, những kiến thức chuyên sâu về Hàng không hầu như không được thể hiện.

Chính vì vậy, các ông đã lập ra một nhóm nghiên cứu nhằm xây dựng một dự án chế tạo buồng tập lái cho máy bay tiêm kích MiG-21bis lấy tên là BT-21. Dự án được trình lên Tư lệnh Không quân với danh nghĩa như một nhiệm vụ Kỹ thuật. Tuy với danh nghĩa là nhiệm vụ kỹ thuật nhưng việc chế tạo buồng tập lái thực chất là một đề tài nghiên cứu khoa học khó và phức tạp. Đây là đề tài nghiên cứu phối hợp giữa TSKH Nguyễn Đức Cương – chuyên về Mô hình Toán học, còn TS Nguyễn Văn Hải chuyên về mảng công nghệ thông tin, công nghệ tự động hóa, chế tạo thiết bị và các cộng sự trong Phòng Nghiên cứu Thiết bị hàng không cùng nhau thực hiện.

Năm 1999, sau khi TSKH Nguyễn Đức Cương chuyển công tác, TS Nguyễn Văn Hải chủ trì dự án và ông đã tiến hành cải tiến nâng cấp toàn bộ từ phần cứng đến các chương trình phần mềm của buồng tập. Những modul chương trình đơn lẻ chạy trong hệ điều hành Dos 6.2, sử dụng cổng COM để chia sẻ thông tin giữa các máy tính, phần đồ họa được vẽ và tô màu một cách thủ công. Buồng tập BT-21M và BT-22M được lập trình bằng ngôn ngữ Visual C 6.0 sau đó là C 8.0 dịch và chạy trong hệ điều hành Windows, sử dụng mạng để chia sẻ thông tin giữa các máy tính. Phần đồ họa được ứng dụng công nghệ 3D để số hóa bản đồ bay Quân sự, sau đó lập trình hiển thị bằng công nghệ Direct X 8.0.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng (thứ 7, hàng đứng thứ nhất) thăm Viện Kỹ thuật Không quân tại Sân bay Gia Lâm, 24-7-1984

Những cải tiến trên cho phép phi công có thể cất cánh từ một sân bay nào đó sau đó có thể về hạ cánh ở một sân bay bất kỳ trong khu vực phía Bắc từ Yên Bái đến Vinh hoặc khu vực phía nam từ Đà Nẵng đến Tân Sơn Nhất. Đến năm 2000, đã chế tạo được 7 buồng tập lái BT-21, các buồng tập lái này đã được trang bị cho các trung đoàn của không quân sử dụng huấn luyện hàng ngày khi thời tiết xấu. Công trình Buồng tập lái máy bay đã được xếp giải nhì về công nghệ thông tin “Giải thưởng khoa học và sáng tạo VIFOTEC-2000”.Năm 2004 chế tạo xong và bàn giao cho trung đoàn bay buồng tập cho máy bay cường kích Su-22M và tiếp tục nghiên cứu chế tạo buồng tập BT-22M4.

“Tôi không có gì tiếc nuối”

Không dừng lại ở đó, TS Nguyễn Văn Hải tiếp tục thực hiện nhiều đề tài khác nhau như: Thiết kế và xây dựng ống thổi khí động OT-1; Nghiên cứu tìm nguyên nhân hỏng hóc để sửa chữa hồi phục hoặc cải tiến hệ thống KS-55BS trên máy bay Su-22; Giàn thử động cơ xe tăng và Diezel HT- B2; Nghiên cứu chế tạo hệ thống kiểm tra khách quan HĐ -21 và HĐ-8 ghi thông tin trên băng từ thay cho hệ thống SARPP-12; Thiết bị giải mã GM – 96,… và thực hiện thành công và đưa vào ứng dụng nhiều đề tài, nhiệm vụ kỹ thuật có giá trị. Từ năm 1992 đến năm 2005 ông đã thiết ké chế tạo được hàng chục thiết bị giải mã hộp đen kiểu GM trang bị cho hầu hết các trung đoàn bay và các nhà máy của Không quân, đồng thởi chế tạo hàng chục bộ kiểm tra khách quan (hộp đen)kiểu HĐ-8 và HĐ-26 để lắp đặt cho hầu hêt các máy bay vận tải và trực thăng của các trung đoàn và tổng công ty bay, thay cho các thiết bị trên của Nga hỏng không hồi phục được.

Mặc dù đã nghỉ hưu từ năm 2006, ông vẫn rất quan tâm và theo dõi sát sao mọi công việc liên quan đến kỹ thuật không quân. TS Nguyễn Văn Hải nói: “Tôi thường bám rất sát các đơn vị Không quân, tôi biết các đơn vị của Không quân cần cái gì, các thiết bị mặt đất hoặc trên máy bay cái nào tốt, cái nào xấu, cái nào sắp hỏng và khả năng sửa chữa của các đơn vị tới đâu”. Những năn 80 của thế kỷ trước, nền kinh tế còn nhiều khó khăn vậy mà ông và các đồng nghiệp vẫn chế tạo thành công những máy bay đầu tiên của Việt Nam “Trong cuộc đời làm khoa học, tôi thấy mình không có gì là đáng tiếc, trong nghiên cứu hiếm khi tôi bị thất bại. Khả năng của chúng ta có thể thiết kế được từ cái nhỏ nhất như ốc vít máy bay cho đến những tổ hợp thiết bị công nghệ thông tin và tự đông hóa hiện đại như các buồng tập lái máy bay”, TS Nguyễn Văn Hải tự hào chia sẻ.

Trình Sỹ Anh Dũng – Hoàng Thị Liêm