Trái chín sớm, quả vẫn ngọt lành

 Từ cậu bé bám mẹ đến chàng trai lãng mạn

Giáo sư, TSKH Phạm Văn Tỵ sinh năm 1938 trong một gia đình làm nghề buôn bán tại thị xã Phú Thọ. Ông nội và ông ngoại đều là những địa chủ có khá nhiều ruộng đất nên hai vị thân sinh ra ông là ông Phạm Văn Bính và bà Phạm Thị Luận đều có cuộc sống êm đềm từ thời tuổi thơ. Nhưng rồi bà nội mất sau khi sinh người con út, ông nội lấy vợ lẽ thì gia đình bắt đầu xẩy ra nhiều chuyện tranh cãi. Bố mẹ ông phải ra ở riêng mà không được nhà nội cho của cải gì. May bên ngoại cũng có điều kiện nên đã giúp đỡ hai vợ chồng mua đất làm nhà. Mẹ ông, bà Phạm Thị Luận là người thông minh, nhanh nhẹn và chịu khó. Một mình bà làm ăn buôn bán chèo lái cả gia đình do chồng sức khỏe yếu. Bà thường đi thu mua chè, sơn ở các huyện xung quanh về chế biến rồi đưa xuống Hà Nội bán cho các đại lý. Vì công việc nên bà thường xuyên đi lại Phú Thọ – Hà Nội.

Hai ông bà Phạm Văn Bính sinh được 7 người con, Phạm Văn Tỵ là cậu con út nên được gia đình chiều hơn cả. Lúc nhỏ, bố ông mải lo quản lý công việc tại nhà, còn mẹ thì thường xuyên lo gom hàng và giao hàng tận Hà Nội nên ông thường theo các anh chị đi học. Biết mẹ hay đi Hà Nội nên ông đòi đi theo: “Mỗi lần mẹ tôi đi Hà Nội thường phải lặng lẽ trốn đi không cho tôi biết vì tôi hay đòi theo. Nhưng lần nào tôi phát hiện được và đòi đi thì mẹ tôi lại chiều và cho tôi đi theo xuống chơi với anh cả đang học dưới đó. Dù đi tàu xe vất vả nhưng vì thấy lạ lẫm nên tôi thấy thích thú và không mệt”. Được xuống Hà Nội chơi, với Phạm Văn Tỵ là cả một thế giới mới. Ông theo mẹ và anh đi chơi phố phường nhộn nhịp và được chứng kiến những điều lạ lẫm. “Có một lần đang theo anh dạo chơi quanh bở hồ Gươm, tôi nhìn thấy mấy ông Tây mũi lõ to cao. Tôi thấy lạ nên cứ nhìn chằm chằm vào họ. Một người gọi anh tôi lại nói gì đó rồi đi. Tôi hỏi, anh nói là họ hỏi “sao em của mày cứ nhìn tụi tao chằm chằm vậy?”.

 Hai anh em Phạm Văn Giáp và Phạm Văn Tỵ tại Phú Thọ năm 1941

Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, rồi Pháp đánh lên Phú Thọ. Năm 1947, gia đình ông sơ tán về xã Chí Chủ (huyện Thanh Ba, Phú Thọ), cứ nghĩ sơ tán ngắn ngày nên có bao nhiêu tiền của gia đình mang theo tiêu dùng hết. Đến đầu năm 1950, bố ông mắc bệnh và qua đời, cuộc sống gia đình trở nên khó khăn: “Sau khi bố tôi mất, một mình mẹ tôi lo cho các con ăn học cũng nhiều vất vả. Khi tôi lên Tân Phong học, rồi lên trường Hùng Vương, tôi phải tự chăm lo cho mình. Tôi với các bạn xin ở nhờ nhà dân và được dân cho mượn chăn chiếu, nồi niêu để nấu ăn và ở. Lúc đó kham khổ nhưng vì ai cũng như ai nên chúng tôi cũng không thấy thiệt thòi gì. Trường lợp mái gianh núp dưới các rừng cọ. Cả thầy và trò đều tản mác về ở các làng ven trường. Trên đường đi có đào nhiều hầm nhỏ để khi đi học mà gặp máy bay ném bom còn có chỗ núp. Trong điều kiện khó khăn nhưng không khí học tập vẫn rất hăng say…”.

Đầu năm 1955, Phạm Văn Tỵ tốt nghiệp phổ thông. Trong thời gian chờ thi đại học, ông làm nhiều nghề để kiếm sống và giúp đỡ gia đình như cùng bạn bè theo xe đi vận chuyển gỗ từ Đoan Hùng về thị xã hay đi đạp chè ở các xưởng chế biến… Thanh niên thời đó chịu nhiều ảnh hưởng lý tưởng sống của Pavel Corsaghin – nhân vật chính trong tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy” của nhà văn Xô viết Nikolai Ôstrốpsky. Mặc dù chưa bao giờ được đọc tiểu thuyết này nhưng Phạm Văn Tỵ cũng “hào hùng khí thế lao vào cuộc sống lao động” như ông kể lại: “Lúc đó có các đoàn tuyên huấn về địa phương. Chúng tôi là thanh niên nên phải đi tham dự các buổi nói chuyện của ban tuyên huấn. Các cán bộ tuyên huấn thường kể những câu chuyện về chàng trai Pavel Corsaghin. Những câu chuyện về lý tưởng sống của nhân vật này đã tác động mạnh đến chúng tôi, gợi cho chúng tôi tinh thần say mê lao động và không ngại khó khăn. Dù chưa một lần đọc tiểu thuyết này nhưng chúng tôi rất ấn tượng và học theo cách sống cảu Pavel Corsaghin”.

Việc ông theo học ngành Địa chất cũng tràn đầy lãng mạn: “Năm 1956, tôi thi vào Khoa Mỏ-Luyện kim của Đại học Bách khoa Hà Nội, trong một lần nghe đài có chương trình “Những bức thư chưa bao giờ gửi” kể về câu chuyện một chàng kỹ sư địa chất Liên Xô lần đầu tiên theo đoàn địa chất vào vùng rừng Taiga tìm các mỏ vàng. Hàng ngày, nhớ người yêu ở thành phố nên anh ngồi viết thư. Nhưng trong rừng sâu không gửi được nên toàn bộ các bức thư được anh cất trong túi. Sau này, khi hoàn thành chuyến đi khảo sát anh kỹ sư địa chất này trở về thành phố, và những lá thư không gửi đó được đưa lên chương trình của Đài. Tôi lựa chọn Địa chất vì lúc đó luôn mang trong mình hình ảnh lãng mạn như anh chàng kỹ sư địa chất Liên Xô”.

Trái chín sớm

Năm 1958, nước ta bắt đầu thực hiện kế hoạch 3 năm phát triển kinh tế và cải tạo chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1958-1960). Trong đó đặt ra nhiệm vụ phát triển công nghiệp. Để có nguồn cán bộ về khoa học kỹ thuật phục vụ kế hoạch phát triển kinh tế của đất nước, cuối năm 1959, sau khi học hết năm thứ 3, các sinh viên khóa I của Đại học Bách khoa Hà Nội được ra trường. Một số được lựa chọn sang Liên Xô và Trung Quốc học tập tiếp, một số được giữ lại trường để làm cán bộ giảng dạy, phần lớn thì về làm việc tại các công trường, xí nghiệp, công xưởng, hầm mỏ…. Ở Bộ môn Địa chất, Phan Trường Thị, Phạm Văn Tỵ, Hoàng Trọng Mai…là những người được chọn giảng dạy. Như GS Phạm Văn Tỵ kể lại: “đáng ra tôi và anh Thị cũng được đi Liên Xô học tập. Nhưng lúc đó, vấn đề lý lịch vẫn ảnh hưởng nặng nề, tôi là con cháu nhà tiểu thương, địa chủ, anh Thị cũng vậy nên không được đi. Nhưng chúng tôi được các thầy chọn để đào tạo làm giảng viên và giảng dạy cho các sinh viên khóa sau ngay khi vừa học hết năm thứ 3 đại học. Đó cũng là một cơ hội học hỏi tốt”.

Thầy trò Bộ môn Địa chất, Đại học Bách khoa Hà Nội trong những ngày đầu xây dựng (1961)

 (Trái qua phải: Tô Linh, Nguyễn Văn Chiển, Phạm Văn Tỵ, Phan Trường Thị)

 Được giữ lại làm giảng viên là một vinh dự nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề. Phạm Văn Tỵ được chọn học và giảng dạy về địa chất công trình-một ngành mới mẻ đối với ông: “Khi học, chúng tôi được các thầy dạy nhiều về địa chất thăm dò. Được cùng thầy Chiển và các chuyên gia Liên Xô đi thực địa. Tôi chưa được học gì về địa chất công trình. Khi lập Bộ môn Địa chất công trình, chỉ có 4 người tham gia giảng dạy là Nguyễn Kim Cương, Trần Hữu Nhân, Nguyễn Văn Tuấn và tôi, trong đó thầy Nguyễn Kim Cương vừa học thủy điện, thủy lợi ở Trung Quốc về giảng dạy. Thầy Cương lên lớp cho chúng tôi khoảng 30 tiết, sau đó chúng tôi phải đọc các tài liệu và giảng dạy cho sinh viên khóa II trở đi”.

Để có thể giảng dạy cho sinh viên khóa sau với kiến thức sau 3 năm đào tạo, lớp cán bộ giảng dạy này đã phải cố gắng, nỗ lực rất nhiều. Bản thân các ông cũng chưa có nhiều kinh nghiệm và tri thức trong lĩnh vực mình giảng dạy. Ngoài việc đọc các tài liệu tiếng Pháp, tiếng Nga do các thầy và các chuyên gia đưa cho thì phải đi thực địa học tập để về giảng dạy. Phan Trường Thị mang túi theo thầy Nguyễn Văn Chiển đi theo chuyên gia Liên Xô lên các vùng mỏ ở Lào Cai, Yên Bái thực địa; đạp xe sang Tổng cục Địa chất gặp bà Nhemkova, khi đó đang công tác tại Việt Nam, học về quang tinh học. Còn Phạm Văn Tỵ cũng theo các chuyên gia lên Công trường thủy điện Thác Bà (Yên Bái) để thực tập. Ông nhớ lại: “Đây là lần đầu tiên tôi được chứng kiến phương pháp thí nghiệm ngoài trời của chuyên gia Liên Xô. Đó là thí nghiệm ép nước để kiểm tra các thông số cho xây dựng đập thủy điện đầu tiên ở Việt Nam do một kỹ sư Liên Xô tổ chức, chỉ đạo. Dàn khoan để trên một cái phao lớn được làm từ các bè gỗ. Phương pháp này rất nguy hiểm nhưng trong điều kiện lúc đó thì người ta không thấy nguy hiểm mà vẫn tiến hành. Nếu đang tiến hành mà có lũ và các bè nứa của đồng bào từ thượng nguồn trôi về thì có thể gây ra tai nạn. Chuyến đi thực tế này cũng mang lại cho tôi những kiến thức mới về phương pháp tiến hành thí nghiệm của các chuyên gia Liên Xô trên công trường”. Bên cạnh theo học các thầy ở thực địa, các ông còn phải đọc nhiều tài liệu để soạn bài giảng.

Quả vẫn ngọt lành

Dù thuộc thế hệ đầu tiên được đào tạo tại Đại học Bách khoa trong những ngày gian khó, phải làm thầy “khi chưa chuẩn bị đầy đủ kiến thức và tinh thần để giảng dạy”, như trái cây chưa đủ độ chín, nhưng sau hơn nửa thế kỷ, các ông đều đã trở thành những “quả đầu mùa” ngọt lành. Phạm Văn Tỵ trở thành một nhà khoa học uy tín trong ngành Địa chất công trình. Phan Trường Thị lại trở thành một chuyên gia hàng đầu trong ngành Thạch học. Hai ông đều trở thành những nhà khoa học uy tín, những nhà giáo mẫu mực, góp phần đào tạo nên nhiều thế hệ học trò trong ngành Địa chất.

Riêng với GS.TSKH Phạm Văn Tỵ, năm 1973, sau khi bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sĩ tại Liên Xô với Đề tài “Ảnh hưởng của các khe nứt đến các tính chất cơ lý của đá và tới sự ổn định của các công trình ngầm”, ông về nước tham gia nghiên cứu, thẩm định việc xây dựng Đập Thủy điện Hòa Bình. Năm 1989, ông bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ với Đề tài “Các quy luật hình thành điều kiện địa chất công trình ở lãnh thổ Việt Nam (phần Lục địa)”. Ông là nhà Địa chất đã tham gia xây dựng các công trình lớn của đất nước như Thủy điện Sơn La, Thủy điện Ialy… Theo GS Phạm Văn Tỵ: “Các nhà địa chất luôn đi trước trong việc nghiên cứu, xây dựng các công trình lớn của đất nước. Muốn xây dựng một công trình nào đó, trước hết phải xem nền tảng địa chất chỗ đó như thế nào, có đủ điều kiện xây dựng công trình không và xây dựng công trình như thế nào cho hợp lý. Đó là việc của nhà địa chất”.

Giáo sư, TSKH Phạm Văn Tỵ cũng là một người thầy đáng kính trong ngành Địa chất. Sau hơn nửa thế kỷ đứng trên giảng đường, ông đã hướng dẫn thành công 5 nghiên cứu sinh bảo vệ luận án Tiến sĩ, góp phần đào tạo nhiều thế hệ học trò ngành Địa chất ở Đại học Mỏ – Địa chất. Ở tuổi 75, ông vẫn miệt mài trên giảng đường như chưa biết đến tuổi già: “Được giảng dạy là một niềm hạnh phúc của tôi. Trao đổi với học trò ở giảng đường hay đi thực địa cùng học trò luôn là một niềm vui lớn. Tuổi nay đã lớn nhưng vì cảm thấy hạnh phúc và vui vẻ nên tôi vẫn có thể đứng trên giảng đường nói chuyện vài ba tiếng đồng hồ mà không thấy mệt”.

Bùi Minh Hào