Họa sĩ Trần Duy[1] thuộc thế hệ những văn nghệ sĩ thời kỳ đầu kháng chiến cùng với những Văn Cao, Nguyễn Hữu Đang. Họ chạc tuổi nhau và thân nhau vì cùng chung những quan điểm nghệ thuật, văn hóa, tư tưởng,… Trần Duy tên thật là Trần Quang Tăng, ông sinh ngày 20 tháng 7 năm 1920 tại Huế, trong một gia đình quan lại. Cố nội ông là Công chúa Đồng Phú con vua Minh Mạng. Nội tộc nhà ông có 3 đời làm phò mã. Ông nội là Trần Quang Trinh làm Tham tri Bộ Lễ, rồi Thượng thư Bộ Hình trong một thời gian rồi về nghỉ, sau ra làm Tổng đốc Quảng Bình, Quảng Trị. Cha ông làm quan ở Phủ Thừa Thiên, rồi bị bắt, ông phải nhờ cụ Huỳnh Thúc Kháng can thiệp mới cứu được cha. Hết bậc trung học, khoảng năm 1940, Trần Duy ra Hà Nội, vào học trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Thời gian sau đó ông tham gia Cách mạng. Sau khi hòa bình lập lại (1954), ông tích cực tham gia viết, hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí, hội họa và văn học. Như ông nói, con người ông “thẩm thấu” rất nhiều giai đoạn khác nhau của lịch sử.
Nói về Từ Chi, Họa sĩ Trần Duy cho rằng, đến bây giờ cũng chưa nhiều người hiểu hết được Từ Chi[2], về bản thân ông cũng vậy, cũng không nhiều người hiểu được ông. Nhưng hai con người này họ hiểu nhau và trở thành tri kỷ cũng vì thế. Trần Duy nói rằng Từ Chi “tội”, cái từ ấy hàm ý ông thương Từ Chi. Nhưng ở chiều ngược lại Từ Chi dường như cũng nghĩ về ông với tình cảm như vậy. Trải qua nhiều thăng trầm của thời cuộc, họ vẫn là những người bạn tri kỷ, để rồi bây giờ khi đã ngoài tuổi 90, Trần Duy chỉ còn lại một mình trong lớp bạn bè cùng trang lứa, và cảm thấy nhớ nhung, buồn bã khi không có người dốc bầu tâm sự, không còn người hiểu mình.
Trần Duy và Từ Chi quen nhau ở Huế, trong những ngày diễn ra Cách mạng tháng Tám năm 1945. Hai người gặp nhau ở Sở Tuyên truyền Trung bộ mới thành lập. Bấy giờ, ông Nguyễn Duy Trinh[3] là Ủy trưởng Tuyên truyền Trung bộ, ông Hà Thế Hạnh là phó. Sau này, nhớ lại khoảng thời gian gặp các vị lãnh đạo và quen biết Trần Duy, PGS Từ Chi đã viết lại: “Hai anh hỏi tôi: Anh ở đâu, làm gì? Rồi quay qua Trần Duy (bấy giờ tên là Trần Quang Tăng). Duy ngập ngừng. Tôi trả lời hộ: Nó là sinh viên trường Cao đẳng Mỹ thuật. Anh Trinh chỉ tay qua bên kia đường: Kìa, đầu cầu Trường Tiền, trước cửa hàng Mô-ranh, có bức bình phong dài nghễnh ra sông Hương; vẽ vào đó cái gì về Cách mạng. Rồi anh đưa cho Duy hai trăm đồng (tiền đỏ Đông Dương). Nói như sau này thì đấy là “công tác cách mạng” đầu tiên trong đời Duy. Tôi cũng được phân công ngay”[4].
Được phân công công việc, hai chàng thanh niên bắt tay vào việc, suy nghĩ của họ là làm việc gì không quan trọng, miễn được làm, hay nói theo lời một bài hát trong những ngày tháng ấy là được “tiến lên, tiến lên dưới lá cờ Việt Minh”. Đó là sự hăm hở, hăng say buổi ban đầu của những người trẻ khi tiếp nhận ánh sáng Cách mạng, đường lối của Việt Minh. Nhưng kể cũng lạ, mãi đến về sau, khi tóc đã bạc mà Từ Chi vẫn phân vân, không hiểu tại sao Trần Duy lại hăng hái trong những ngày ấy như vậy. Từ Chi viết: “Gia đình Duy (Tăng) là gia đình quan lại: cố mẫu của Duy là công chúa Đồng Phú, con vua Minh Mạng; bên nội Duy ba đời làm phò mã. Khi Duy và tôi gặp nhau tại Sở Tuyên truyền, bác của Duy, vốn là Tôn nhân Phủ đại thần, đã nằm tù từ mấy hôm trước… Nằm tù vì bị Cách mạng bắt, cùng một số quan lại khác. Thế mà Duy vẫn đến Sở xin công tác và gặp tôi tại đấy. Để thành bạn từ đấy. Lạ hơn nữa là các anh Trinh và Hạnh lại nhận Duy, nhận ngay. Và phân công ngay. Nói cho văn chương hơn, mà cũng công thức hơn, thì Cách mạng đã đón nhận Trần Duy từ thuở ấy”.
Họa sĩ Trần Duy, Hà Nội, 3-2013
Vẫn công việc được giao vẽ bức tranh “có cái gì đó về Cách mạng” một chút nhưng Trần Duy lại chẳng làm gì cả. Từ Chi giải thích về việc này: “Ấy là theo con mắt tôi. Ngày, nó (tức Trần Duy- TG) đi đâu không rõ. Chiều tối, đôi khi nó đến gọi tôi dạo trong thành phố đã vắng người. Vừa bước, Duy vừa kể lể. Chuyện Duy kể toàn những mâu thuẫn, nói như bây giờ là đầy nghịch lý. Đi ngang bức bình phong còn trắng toát, Duy dừng lại một hồi, bước qua, bước lại, có khi lùi xa, có khi cúi xuống một góc nào đó, không nói gì cả, rồi quay lưng lại nhìn ra bờ sông. Tôi hỏi: làm thế để làm gì? Duy nói: Tìm chỗ thuận nhìn nhất cho trọng tâm bức tranh. Ít lâu sau, có hôm anh Trinh hỏi: Tranh đến đâu rồi? Duy ấp úng. Tôi trả lời thay: Nó tiêu hết tiền rồi. Anh Trinh mỉm cười, đưa thêm tiền cho Duy: Cần gì, cứ bảo tôi. Lúc ấy tôi chỉ buồn cười”[5]. Cuối cùng bức tranh biển rộng mênh mông, cờ đỏ sao vàng lồng lộng, một bà mẹ cầm gươm hướng về phía trước, tay ôm một đứa bé trên bức bình phong đầu cầu Trường Tiền cũng được vẽ xong. Bức tranh được ông Nguyễn Duy Trinh khen là có khí thế, còn Từ Chi, mặc dù không biết mấy về tranh, không phải là nhà phê bình nghệ thuật nhưng cũng cảm thấy “gió biển từ trong tranh ào ra ngoài, phả mạnh vào mặt”[6].
Cũng trong những ngày sôi nổi của Cách mạng tháng Tám, Trần Duy cùng với Từ Chi và một số người bạn nữa chung sức ra tờ báo Reo. Như Từ Chi cắt nghĩa: “Reo nghĩa là vui, nói theo kiểu ngày nay thì toàn những bài “tếu”. Nhưng là reo vui với Cách mạng. Vốn “ngỗ ngược”, ngỗ ngược theo nghĩa thích nghịch lý. Một lần, Trần Duy vẽ lên báo một bức tranh “tếu”… Vụ nghịch ngợm này Từ Chi và Trần Duy bị ông Nguyễn Duy Trinh gọi lên mắng cho một trận, mắng như “anh mắng em”. Và thế là chuyện đó được bỏ qua”.
Thế rồi, toàn quốc kháng chiến bùng nổ (12-1946), Từ Chi và Trần Duy mỗi người một nơi. Từ Chi đi lính vào Nam còn Trần Duy ra Bắc tham gia tập kích sân bay Gia Lâm của Pháp, sau đó phục vụ cho Cách mạng ở Việt Bắc. Đến sau ngày miền Bắc được giải phóng (1954), Từ Chi mới gặp lại Trần Duy một cách tình cờ giữa lòng Thủ đô Hà Nội, khi “mặt cả hai đứa bắt đầu có đôi nếp nhăn. Duy cũng đã thực sự là Duy, là Trần Duy, một nghệ sĩ quen biết trong giới tạo hình chứ không còn là Trần Quang Tăng. Vả chăng, ngoài tôi ra còn ai biết đến cái tên cúng cơm ấy nữa. Nhưng có một điều Duy không thay đổi: vẫn “ngỗ ngược”, tôi muốn nói vẫn tếu, vẫn thích nghịch lý. Và tôi nhận ra ở đấy thằng Tăng năm xưa”[7].
Chuyện sau đó, mỗi người một số phận, mỗi người lao vào một đam mê riêng, cái nghiệp gắn vào thân, và nghiệp ấy có đủ cung bậc của cảm xúc: hỷ, nộ, ái, ố. Hai ông đã từng nếm đủ dư vị của nó. Trần Duy có những rắc rối trên con đường nghệ thuật của mình, còn Từ Chi “lang thang” trên những nẻo đam mê của một nhà nghiên cứu dân tộc học, văn hóa. Và nói như Từ Chi thì “làm nghệ thuật là mang lấy nghiệp vào thân. Đấy là mệnh”. Nhưng Trần Duy vẫn vẽ, vẫn dựng áp phích, vẫn mở những cuộc triển lãm tranh của mình cho đến tận ngày hôm nay.
Trong một cuộc triển lãm tranh của Trần Duy vào đầu thập niên 90, Từ Chi đã đến xem và viết lại những dòng cảm nhận về tranh của Trần Duy. Nó không đơn thuần là những lời phê bình hội họa, mà hơn thế, là tình cảm của hai người bạn hiểu nhau từ thuở còn “xanh tóc” đến khi đã “bạc đầu”. Từ Chi chẳng biết nói gì về tranh của Trần Duy, không thể nhận xét tác động của nó lên người ngắm tranh, về những gì góp phần làm nên cái đẹp ấy, đó có lẽ là chuyện của những nhà phê bình, nghiên cứu. Là người bạn của Trần Duy từ thuở nhỏ, là người cho rằng mình có đôi phần hiểu Trần Duy, Từ Chi viết: “Sau mấy chục năm cả vui lẫn buồn, khi hăng hái, khi dằn vặt, cả thao thức nữa, trên những cảnh nền có khi chập chùng của biển, có khi trùng điệp của núi rừng, lại có khi dịu dàng của cánh đồng châu thổ, cái Trần Duy muốn nói, cái anh luôn trở về, là chất nhẹ nhàng, tinh tế, phải nói là êm ả. Như cánh thì là, như đóa hoa mùi bé bỏng mà người đời dễ quên đi. Hình ảnh hiện lên tranh anh là hình ảnh của đất nước, là bóng dáng trong dĩ vãng, mà đồng thời lại là truyền thống muôn đời của dân tộc. Mà luôn bám được điều đó, cho dù phong cách có biến đổi qua thời gian, chính là vì anh vẽ rất thật. Thật, mà không khỏi nhuốm màu huyền ảo. Huyền ảo, mà vẫn thật. Thật là không giả. Không tự huyễn hoặc mình. Và không vô tình huyễn hoặc người khác”[8].
Từ Chi qua sự thể hiện của họa sĩ Trần Duy
Và cuối cùng, nhắc lại những câu chuyện mà hồi trẻ Trần Duy vẫn hay giải thích và hay nghĩ, theo như Từ Chi thì nó có vẻ “nghịch lý”, ông viết: “Một câu hỏi vượt ra ngoài biên của nghệ thuật: Phải chăng bao mâu thuẫn trong cuộc đời đã được Trần Duy, từ thuở còn là Trần Quang Tăng tiết ra bằng lời, bằng những câu chuyện đầy nghịch lý, khiến cho khi ngồi trước giá vẽ anh đã sẵn sàng trong một tâm một thế hài hòa mới, và những gì ra đời dưới bút vẽ của anh, chỉ có thể là nhẹ nhàng, êm ả? Đó là câu tự hỏi của một người bạn. Tôi không hỏi Trần Duy. Vì tôi biết rằng câu trả lời của anh chỉ có thể là những bức tranh”[9].
Tiếc thay, Từ Chi đã rời “cõi tạm” (1995), để lại Trần Duy nếu không có sách thì luôn thấy cô đơn và trống vắng, thiếu người trò chuyện. Họa sĩ Trần Duy tâm sự rằng, có lẽ Từ Chi “yêu” ông và ông cũng “yêu” Từ Chi. Quả thực, nói như ông, để hiểu một con người tài năng như Từ Chi thật khó, và để hiểu một họa sĩ mang đầy mâu thuẫn, nghịch lý như ông cũng không hề đơn giản. Bạn bè của ông, những người hiểu ông và ông yêu quý, như Văn Cao, Nguyễn Hữu Đang, Từ Chi đã về với thiên thu từ rất lâu rồi, chỉ còn lại mình ông… Bức tranh ông vẽ Từ Chi vẫn được để trang trọng ở trên giá sách của mình, ông thường nhìn lên đó, cười và nhắc đi nhắc lại một câu: Người đời không mấy ai hiểu hết Từ Chi.
Nguyễn Thanh Hóa
_____________________
[1] Họa sĩ Trần Duy, người có nhiều sáng tác nổi tiếng như:“Tiếng sáo tiền kiếp”; “Những người khổng lồ”.
[2] PGS Từ Chi, là một nhà Dân tộc học hàng đầu của Việt Nam thế kỷ 20, chuyên gia nghiên cứu về người Mường và làng xã người Việt.