Tướng Phạm Hồng Sơn chắc là một trong những người gần gũi nhất với gia đình tôi, ông kết hôn với dì ruột tôi, và từng chỉ huy đơn vị đã gắn liền với một phần đẹp trong cuộc đời của cha tôi: Trung đoàn Bắc – Bắc (E -36).
“Chú Hồng Sơn” để lại kỷ niệm trong thằng nhóc, là tôi, hình ảnh chiếc quạt tai voi quay vù vù suốt ngày đêm như cối xay gió – quà tặng của ông khi đi học Học viện Bộ Tổng tham mưu Liên Xô đầu thập niên 60. Nó sẽ làm việc khoảng gần 20 năm mới hỏng.
Khi tôi lớn dần lên, còn “ông Hồng Sơn” định hình trong tôi như một vị tầm thước, mặt đẹp “như Tây”, vô cùng chu đáo. Nổi bật, ở ông là khả năng “phun trào” vô tận những ý tưởng mới mẻ, như một tương phản với kỷ luật nhà binh mà một lính Việt Nam điển hình như ông suốt đời noi theo. Có thể mô tả như một nhà văn phương Tây mô tả ông Giáp: Một cây bút và một cây súng. Nhưng định mệnh đã buộc Hồng Sơn gắn với súng ống nhiều hơn là nguồn tươi mát của tư tưởng, và hậu quả chiến trường rồi sẽ tước đi ở ông năng lực tư duy trác việt vào những năm cuối đời, đó là cái giá của những chiến thắng, và những trăn trở vượt lên tầm thời cuộc của ông.
Lúc bé, mở cuốn an bom đầu tiên về ảnh gia đình, tôi nhận thấy bức ảnh Hồng Sơn chụp với cha tôi trong sở chỉ huy E 36. Hai “ông” chỉ huy trung đoàn này lúc đó còn U30, đang thổi ác-mô-ni-ca của một thời chiến chống Pháp mà một nhà văn Pháp cho là có nét “lãng mạn” (nét ý thức hệ của kháng chiến ở Việt Nam chỉ đậm lên sau 1950, khi Việt Nam trở thành điểm nóng của chiến tranh lạnh, vẫn theo học giả Pháp). Cha tôi nhớ lại: “Hồi ấy đánh tú lơ khơ, Hồng Sơn nhớ tất cả những quân bài đã dập”…
Khoảng giữa 1960, tôi có một thằng bạn con nhà binh vận. Nó nghe trộm khi cha nó nghe đài Sài Gòn (thời ấy các ông bố bộ đội làm việc cả ngoài giờ hành chính) rồi bảo tôi: “Đài địch nói tướng Hồng Sơn (lúc đó ông là đại tá) đã vào đến chiến trường B”. Nhóc là tôi tiếp tục đá bóng, chẳng biết rằng điều đó sẽ có nghĩa là vài lần bị B-52 đánh sát trong gang tấc. Gần đây có chuyên gia y tế người Nga nói có thể chứng mất trí nhớ lúc cuối đời của Hồng Sơn là do ông đã bị B-52 vùi dăm chục phút, trước khi đồng đội moi ông lên.
Từ đêm trước của chiến tranh cục bộ Mỹ, Hồng Sơn từng đi những con đường khác nhau, kể cả giả làm thương gia đi qua đường Campuchia, để đi từ tổng hành dinh vào chiến trường vài lần. Lịch sử quân sự thế giới chắc hiếm có quân nhân nào vừa làm Cục trưởng Huấn luyện chiến đấu, vừa làm tham mưu trưởng một chiến trường. Tên tuổi của ông gắn với B3 trong tiến trình tướng Giáp gắn sa bàn, bản đồ trong Tổng hành dinh với thực tiễn chiến trường. Còn Tây Nguyên (B3) chính là chiến trường quyết định, về địa chính trị.
Nhưng trong bài học Việt Nam, từ trận mở đầu Ya Drang (1965) qua những trận chiến trên những ngọn đồi đến những chiến dịch Đắc Tô I, rồi II… và kết thúc bằng Buôn Mê Thuột bất hủ, là một minh họa của học thuyết quân sự Việt Nam: Quân Giải phóng đi từ không đến có, từ nhỏ đến lớn càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng. Một cuốn sách về Quân đội nhân dân Việt Nam thông dụng ở Mỹ gọi Hồng Sơn là tướng “kỹ thuật”, chắc họ đã theo sát ông từ ngày đầu ở Tây Nguyên cho đến khi tướng Giáp “tiền pháo, hậu tăng” dàn trận hiệp đồng binh chủng đầu thập kỷ 70, như Oriana Fallaci từng viết.
Tiến trình này hun đúc Hồng Sơn không chỉ như một tướng dày dạn chiến trận, mà cả như như một chuyên gia lão luyện về khoa học chỉ huy – tham mưu, một học giả hàng đầu về nghệ thuật chiến dịch. Sổ công tác tại những thời điểm bản lề, như từ phi Mỹ hóa sang Việt Nam hóa, cho thấy tiến trình tư duy của Hồng Sơn chứa biết bao điều đáng học, cả cho những thời khắc như hội nhập, hôm nay. Nhưng nó còn có nghĩa là những trận chảy máu dạ dày, sẽ là di hại khốc liệt với mạng sống của ông, hơn ba bốn mươi năm về sau.
Trước “Điện Biên Phủ trên không”, mẹ tôi đi Paris về kể chuyện các học giả Pháp tíu tít hỏi bà về chiến dịch Nam Lào (1971 – mà ông Hồng Sơn là tham mưu trưởng), “làm sao mà giấu được cả một quân đoàn ở đó, rình sẵn?”… Giấu quân là một điểm tinh nhuệ của Hồng Sơn: Tướng Giáp đã giải quyết mối lo quân Pháp rút khỏi Điện Biên cuối 1953 bằng cách ém trung đoàn “biết độn thổ” 36 tại Pom Lót. Có một câu chuyện “vui” là lúc mất trí gần cuối đời, Hồng Sơn hay giấu chìa khóa, hoặc những vật dụng nhỏ khác khỏi mắt những người thân.
Nhưng khi tôi được gặp ông ở chiến trường ở Nam Lào về, thì không thấy hào quang của một tướng thắng trận, mà là giọt nước mắt ứa ra đau khổ, vì con em của nhân dân Miền Nam (đi theo quân Việt Nam cộng hòa) tử trận quá nhiều…
Tôi cũng ứa nước mắt khi đọc những dòng của dì tôi viết về ý trung nhân của mình, Phạm Hồng Sơn lúc cuối đời. Khi bị mất trí, ông vẫn đeo túi vợt tenis đi theo con đường đã quen từ Lý Nam Đế lên Hoàng Diệu, đến sân Măng Gianh (sân Cột cờ) nơi từng là Câu lạc bộ Quân đội, cũng có nghĩa là sân bóng thần thoại tuổi teen của tôi. Nơi ấy gắn với quãng đời ông như Cục trưởng Quân huấn (Huấn luyện chiến đấu) với một huyền thoại mang tên Thể công, mà Hồng Sơn từng góp công xây đắp. Chắc ông muốn tìm lại hình bóng của những đồng đội, như hổ tướng Vũ Yên. Vũ Yên về hưu chết giữa hai séc bóng bàn, miệng vẫn cười, chắc do các tử sĩ của trung đoàn Thủ đô công kiên khét tiếng (E 102) từ ngày đầu chiến trận, tới đón chỉ huy muôn thuở của mình về bên Cụ Hồ.
Giờ này, trên thinh không, chắc hồn những người lính Bắc – Bắc “lừng danh đánh đâu thắng đó”, vẫn trẻ măng, đang vui đón E trưởng Phạm Hồng Sơn, kể chuyện Nguyên Phong… Còn với tôi, Hồng Sơn, như những bậc trí cao, tâm sáng, những người cha mặc quân phục đã đi xa trước đó, như Thái Dũng, Lê Linh, Cao Pha, Hồ Đệ… không mất đi. Tôi sẽ cố sống xứng đáng, chờ ngày gặp lại họ.
Lê Đỗ Huy