Tuổi thơ thăng trầm
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công đã xua đi bầu không khí ngột ngạt của thị xã Lạng Sơn vừa qua đi những cơn đói dữ dội. Chú bé Trần Thành khi đó mới 10 tuổi đang nô đùa cùng các bạn ở trường Tiểu học Thị xã bỗng thấy một đám người tiến vào dinh Công sứ, mấy hôm sau: “Một cuộc mít tinh lớn được tổ chức bên ngoài dinh Công sứ. Một người cao lớn, mặc áo kaki kiểu sĩ quan Pháp bước lên lễ đài, ông giơ nắm đấm lên ngang thái dương, quay ba hướng chào quần chúng. Ông là nhà cách mạng Trần Minh Tước[1]”[2]. Sau khi ông Tước thuyết trình xong, mọi người tiếp tục đi diễu hành trong bầu không khí sôi nổi, nếu cách mạng không về kịp thì còn nhiều người dân phải sống trong cái đói, rồi cái chết mang đi rồi. Trước đó mấy tháng, miền Bắc vừa trải qua đợt mất mùa, lụt lội khiến nạn đói hoành hành khắp nơi, người dân dưới xuôi kéo lên mạn ngược ăn xin và chết đói la liệt ở ngoài đường. Rạp Chấn Hưng ở cuối phố Cửa Bắc, thị xã Lạng Sơn vốn là nơi diễn tuồng nổi tiếng thị xã, nơi ông Thành cùng các bạn từng lách vé vào xem biểu diễn, giờ đã biến thành Trại tế bần, sau trở thành nơi thu gom xác người chết đói để mang chôn. Hai mẹ con ông Thành vốn không phải dân bản địa nơi đây nên phải lăn lộn kiếm sống mới vượt qua được tháng ngày khốn khó đó. Mẹ ông Thành – bà Trần Thị Thi vốn từ nhỏ đã bị những kẻ buôn người bắt lên Lạng Sơn bán, may được một gia đình hương sư thương nuôi và cưới gả cho ông Trần Nhật – một người thợ giày trên phố Cửa Bắc, thị xã Lạng Sơn. Khi Trần Thành được hai tháng tuổi thì bố ốm, rồi mất, hai mẹ con phải tự lực vượt qua bao khó khăn để tồn tại.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập ở Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chỉ mấy ngày sau đó, quân của Tưởng Giới Thạch lấy danh nghĩa quân Đồng minh, vào Lạng Sơn, rồi tiến về Hà Nội. Theo trí nhớ của ông Trần Thành: “Đó là đoàn quân nhếch nhác, đi tới đâu, ruồi bâu tới đó”[3]. Lúc đó, ông và các bạn trong khu phố thường hát xuyên tạc là “đoàn quân tàu ô đi, sao mà ốm thế, bước chân phù lang thang trên đường Việt Nam”[4]. Cuộc sống ngày càng khó khăn, đặc biệt là từ khi quân Pháp kéo ra miền Bắc sau Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946. Cuối tháng 11 năm 1946, Pháp nổ súng, đánh chiếm Lạng Sơn, Trần Thành được mẹ đưa đi sơ tán khỏi thị xã rồi lần lượt trải qua nhiều nơi trong chiến khu Việt Bắc. Khi đó, hai mẹ con ông sống trong một khu nhà có 7 gian được chia cho 7 gia đình. Hàng ngày, mẹ ông phải nhận nấu cơm hàng cho các ông ký, ông phán đi sơ tán và cùng trọ trong khu nhà. Họ là người có chữ, nên mua nhiều sách báo, nhất là các báo có feuilleton (tiểu phẩm) vốn là tiểu thuyết 3 xu rẻ tiền. Khi đọc xong, họ thường vứt đi nên cậu bé Thành lại lượm về nhà đọc. Ngoài ra, ông cũng thích đọc truyện thám tử Sherlock Holmes của tác giả Conan Doyle, nước Anh, hoặc truyện trinh thám của Việt Nam như: Đám cưới Kỳ Phát của Phạm Cao Củng, Lê Phong và Mai Hương của Thế Lữ; hoặc truyện ngắn Hồn bướm mơ tiên, Gánh hàng hoa của tác giả Khái Hưng… Ông Thành thừa nhận mình chịu ảnh hưởng văn chương của Tự lực văn đoàn vì giọng văn nhẹ nhàng, thấm vào lòng người. Chất văn của văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 ảnh hưởng đến ông khá rõ nét, mà như ông từng thổ lộ “Nếu không có giai đoạn văn học này thì tôi không có vốn văn như hiện nay”[5]. Sau một ngày làm việc vất vả, mẹ lại bảo ông đọc thơ hoặc một vài chương tiểu thuyết nổi tiếng đương thời như Nửa chùng xuân (Khái Hưng), Tôi là mẹ (Lê Văn Trương) cho bà nghe,... Lúc đó, Trần Thành đã tập hợp được một số sách và báo cũ để thành một tủ sách nhỏ, đó cũng là tài sản quý giá duy nhất mà ông có thuở thiếu thời.
Cuộc sống lúc xa nhà
Đầu năm 1951, ông Trần Thành xin vào học lớp 5 ở trường Trung học kháng chiến Việt Bắc do ông Nguyễn Hữu Tảo làm Hiệu trưởng, thầy Tảo là nhà giáo lão thành, từng đi dạy nhiều nơi và đào tạo nhiều thế hệ học trò thành tài, trong đó có nhà văn Nguyễn Đình Thi. Khi đó, ông Thi đang là Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc và công tác ở vùng Việt Bắc nên thường ghé đến trường Trung học Việt Bắc thăm thầy. Vốn yêu thích văn học nên ông Thành rất phấn khởi mỗi khi được gặp ông Thi. Khi đó, cơ sở vật chất của trường còn đơn sơ và thiếu thốn. Lớp học nhỏ như những chiếc lán được lợp bằng lá cây, tường làm bằng đất nên không gian rất tối và trống trải. Ông Thành nhớ lại: “Thiếu bàn ghế, tôi cùng các bạn vào rừng chặt những cành cây có chạc về đóng xuống đất làm chân bàn, sau đó đặt tấm liếp được đan bằng tre, vầu lên trên, thế là thành bàn học, ghế là những thân cây được bạt đi cho bằng để ngồi”[6]. Do nơi học cách xa nhà nên Trần Thành và ông Nguyễn Công Tạn[7] xin đến ở nhờ nhà người bạn học tên Hùng, bố là ông Số, người dân tộc Nùng, sống bằng nghề làm bánh và nấu cơm thuê. Khi đó, hai ông cùng ngủ trên sàn nhà, lúc rảnh rỗi thì cùng nhau chơi cờ caro, vốn học toán giỏi nên ông Tạn thường tư duy tốt hơn trong các cuộc chơi. Cuối tháng, ông Thành phải đi bộ về nơi ở trọ của mẹ để xin tiền và gạo đóng góp cho ông Số để họ nấu cơm cho ăn cùng. Những lần đi bộ lách đường rừng về nhà thật khó khăn, trèo đèo lội suối khiến chân ông đau mỏi, thường mất gần một ngày mới về tới nhà. Có những lúc thiếu thốn, một quả trứng gà luộc ông Thành cũng phải chia làm hai bữa sáng và chiều, hiếm khi được ăn thịt. Vào mùa đông, vùng núi đá, sương muối rất buốt, trên người ông chỉ mặc một vài chiếc áo cánh mỏng, với một chiếc áo len cộc tay duy nhất. Cuộc sống khắc nghiệt nơi đây khiến ông một lần bị sốt rét nặng gần chết.
Vùng Bắc Sơn, nơi ông Thành sống và học tập trong những năm tháng đó còn rất hoang vu, cây cối rậm rạp nên nhiều thú rừng sống. Có lần, hổ vào nhà người dân để bắt lợn, thấy động, họ gõ mâm và chậu ầm ĩ làm hổ hoảng sợ và bỏ lại con lợn đã bị cắn chết. Đồng bào dân tộc vốn kiêng không ăn thịt lợn mà hổ đã tha đi nên các học sinh trong trường được bữa cải thiện Ngày đó, cuộc kháng chiến chống Pháp còn diễn ra ách liệt, các hoạt động thường diễn ra vào ban đêm. Ông Trần Thành còn nhớ, có lần đi học về, ông và các bạn thấy hai chấm sáng xanh lè ở trên mỏm núi, nhìn kĩ lại mới biết đó là một con hổ ngồi chồm chỗm đang chờ rình mồi, khiến mọi người sợ hãi, vội bỏ chạy.
Hết lớp 5, ông Thành chuyển sang học ở trường Trung học thị xã Lạng Sơn đóng ở bản Cọn Lèng, gần dãy núi Tam Thanh với nhiều hang đá, do thầy Vũ Hữu Nghĩa làm Hiệu trưởng. Nhờ chăm chỉ học tập và tham gia phong trào đoàn sôi nổi, nên Trần Thành được cử làm Hiệu đoàn trưởng của trường và tham gia công tác ở Thị đoàn Thanh niên Lạng Sơn với nhiệm vụ tuyên truyền cổ động cho nhân dân về công cuộc kháng chiến của dân tộc ta. Năm 1953, ông Thành tốt nghiệp lớp 7 và kết thúc chương trình học ở trường Trung học thị xã Lạng Sơn. Nhờ đạt kết quả tốt trong học tập và được Tỉnh đoàn Lạng Sơn khen thưởng cho những nỗ lực tham gia hoạt động Hiệu đoàn nên ông được Ty giáo dục Lạng Sơn cử sang học khoa Văn, Trường Trung cấp Khoa học xã hội thuộc Khu học xá Nam Ninh, Trung Quốc. Theo thông báo của trường, ông Thành đi bộ đến thị trấn Bắc Sơn để tập trung, tại đây ông gặp một số bạn như: Nguyễn Duy Quý, Lê Xuân Tùng, Hà Học Hợi… cùng sang học ở Trung Quốc. Tiếp tục đi bộ lên thị trấn Đồng Đăng, đoàn học viên được đón lên xe ô tô ở Mục Nam quan để sang Khu học xá Nam Ninh, Trung Quốc. Vốn sống lam lũ ở vùng rừng núi với nhiều khó khăn thiếu thốn, nay ở trong khu ký túc xá của nhà trường khang trang với điều kiện sinh hoạt đầy đủ khiến ông Thành cảm thấy cuộc đời như đổi khác. Ở Khu học xá, ông cùng mọi người được nuôi ăn miễn phí ở cá bếp ăn tập thể của trường, cái đói từ đây không còn hiện hữu nữa. Ngoài ra, nhà trường còn cấp cho mỗi học sinh 5 nhân dân tệ (đơn vị tiền Trung Quốc) để tiêu hàng tháng, số tiền này được ông Thành dành dụm chủ yếu để mua sách.
Học viên Trần Thành ở Khu học xá Nam Ninh, Trung Quốc, năm 1955
Ở môi trường mới, ông được học các thầy giỏi như: ông Nguyễn Lân và ông Nguyễn Hữu Tảo dạy tâm lý giáo dục, ông Hoàng Như Mai và ông Đinh Gia Khánh dạy môn văn học, ông Nguyễn Hồng Phong dạy sử học… Với kiến thức uyên bác, bài giảng của các thầy làm ông rất mê và thích thú. Thầy Đinh Gia Khánh vừa là giáo viên dạy môn văn học dân gian kiêm chủ nhiệm lớp. Học trò Trần Thành luôn coi thầy Khánh là tấm gương sáng về tinh thần tự học. Ông kể: “Có một lần tôi đến phòng trọ thăm thầy Khánh, từ ngoài nhìn vào, tôi thấy thầy đang quét nhà nhưng trên tay vẫn không rời cuốn sách. Chiếc chổi trên tay dù đưa qua đưa lại nhưng dường như thầy Khánh không để ý mình đã quét nhà tới đâu rồi”[8].
Ngoài thời gian học trên lớp và đọc sách ở thư viện, đến tối, ông Trần Thành lại tranh thủ học thêm ngoại ngữ. Do chương trình nội khóa nặng, nên môn Trung văn chỉ được đưa vào chương trình giảng dạy một học kỳ, để giáo sinh tập trung vào các môn học chính. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (tháng 5-1954), Hội nghị Genève[9] được họp bàn và đi tới kết thúc chiến tranh, hòa bình được lập lại nên miền Bắc cần nhiều giáo viên cho vùng mới giải phóng. Ban đầu, nhà trường còn phân ban (Văn-Chính trị và Sử-Địa), sau gộp chung thành các môn khoa học xã hội, không có môn Trung văn. Mặc dù vậy ông vẫn kiên trì học tiếng Trung với sự ham mê, để tránh bị phát hiện, ông mua một chiếc đèn pin, rồi trùm chăn mà học. Với tinh thần học tập đó, trong suốt ba năm học ở Khu học xá, ông được các thầy giáo đánh giá cao về năng lực và kiến thức. Sau này, GS Trần Thành được bạn học cùng lớp là Nguyễn Thanh Tùng, người chuyên giúp các thầy sao lại học bạ kể lại: “Lúc sao đến học bạ của Thành thì thầy Khánh ghi: Đây là giáo sinh đầy triển vọng”[10].
Lần đầu đến Thủ đô
Tháng 6-1956, ông Trần Thành tốt nghiệp Trường Trung cấp Khoa học xã hội và có nguyện vọng về Việt Nam giảng dạy ở một trường cấp 3. Các thầy Hoàng Như Mai, Nguyễn Hồng Phong muốn giữ ông ở lại trường công tác, còn thầy Đinh Gia Khánh nói với học trò Trần Thành rằng: “Em phải về Hà Nội để trí thức Thủ đô thấy được trình độ học sinh kháng chiến như thế nào”[11]. Giữa tháng 6-1956, ông Trần Thành cùng các cán bộ trong trường như Nguyễn Bùi Vợi, Đinh Nho Lương, Nguyễn Đình An… đi chuyến xe lửa liên vận từ ga Nam Ninh đến ga Bằng Tường, rồi đổi tàu trở về Hà Nội. Tài sản ông Trần Thành mang về chỉ có một chiếc bị đựng sách với một chiếc balô đựng vật dụng cá nhân. Lúc này, Hà Nội đang giữa mùa hè, trời nắng và rất nóng. Ở ga Hàng Cỏ nhìn ra đường phố Hà Nội, lòng ông thoáng buồn vì đường phố Thủ đô không tấp nập như hằng tưởng, nhiều gia đình đã bỏ vào miền Nam. Ông nhớ: “Xích lô là nhiều nhất, thi thoảng có chiếc xe đạp hoặc hiếm lắm mới có một chiếc ô tô chạy trên đường”[12]. Chờ một lúc, chiếc xe ô tô tải của Bộ Giáo dục cử đến chở mọi người về các trường công tác. Khi đó, ông được phân về công tác ở trường Sư phạm Sơ cấp Hà Nội. Trường nằm trên đường đi Hà Nội – Sơn Tây thuộc địa bàn thôn Tiền Xã, làng Dịch Vọng tại cây số 8 (đến năm 1958 là địa điểm trường Đại học Sư phạm Hà Nội). Cơ sở vật chất của trường hầu như không có, các lớp học chỉ là những ngôi nhà đơn sơ, mái được lợp bằng lá gồi. Mỗi giáo viên được phân một buồng cá nhân rộng 8m2, ở dãy nhà tập thể, theo mô tả của ông Trần Thành, khu nhà tập thể giống như dãy chuồng chim, mỗi buồng chỉ có một chiếc giường cá nhân và bàn làm việc.
Đầu tháng 7-1956, Bộ Giáo dục có chủ trương tổ chức tập huấn cho giáo viên cấp 2, cấp 3 và sư phạm của miền Bắc tại trường Chu Văn An với thời gian hơn 1 tháng. Khoảng cách từ khu tập thể nhà trường đến trường Chu Văn An dài gần 10km, không có xe đạp nên ông giáo Thành phải đi bộ từ khu tập thể ra bến tàu ở đền Voi Phục (cạnh Công viên Thủ Lệ) để đi tàu điện đến trường. Một thời gian sau, thấy một số học viên đi lại vất vả, trong đó có ông Thành, nên nhà trường bố trí cho ông cùng một số người vào sống nội trú tại trường Chu Văn An, trong căn phòng ở tầng 3. Học viên sống nội trú khá đông với khoảng hơn trăm người. Lớp tập huấn do ông Hà Huy Giáp[13] – Thứ trưởng Bộ Giáo dục phụ trách. Nội dung của chương trình là nhằm chỉnh huấn tư tưởng chính trị cho cán bộ giáo viên trong tình hình mới của đất nước. Một hôm, giữa tiết trời oi nóng của trưa hè tháng 7, ông Thành mặc trên người chiếc áo may ô mỏng và ngồi trên ban công đọc tài liệu, thì thấy từ ngoài cổng, một chiếc ô tô màu cà phê sữa tiến vào sân trường. Trên xe bước xuống là một ông cụ ngoài 60 tuổi, có hai người đi bên cạnh. Bỗng có tiếng nói từ dãy nhà vang ra: “Bác đến, Bác đến, anh em ơi!”. Ngay lập tức, mọi người từ trong phòng của các dãy nhà liền ùa nhanh ra ngoài sân, ông Trần Thành cũng vội chạy từ tầng 3 xuống. Lúc ông Thành chạy đến sân trường, Bác đã đứng trên sân khấu nổi được xây bằng gạch, trát xi măng, mọi người vây kín xung quanh Bác. Ai cũng muốn len lên sân khấu để mong được đứng gần Bác. Bác đến đột xuất và không thông báo cho Ban lãnh đạo nhà trường nên không có nghi thức đón tiếp Bác. Lần đầu tiên được nhìn thấy Bác, theo GS Trần Thành hồi tưởng lại: “Người lúc đó đã 66 tuổi nhưng còn khỏe mạnh và đẹp lão lắm, da Bác đỏ như quả bồ quân”[14]. Ông Trần Thành cũng cố gắng len đến đứng gần Bác Hồ để được nhìn kỹ Người hơn
Tuy không lưu giữ được nhiều kỷ niệm về Bác, nhưng hình ảnh lần đầu được gặp Người đã để lại trong tâm trí ông Thành không bao giờ quên. Để rồi, như một cái duyên, nửa cuối cuộc đời công tác, ông lại chuyên nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có lẽ, chính lòng kính yêu vị lãnh tụ của dân tộc đã đem lại cho ông cảm hứng, niềm đam mê, ý chí và nghị lực, vượt qua những hạn chế của bản thân để phấn đấu trở thành một chuyên gia nghiên cứu về Hồ Chí Minh học.
Ngô Văn Hiển
_________________________
* GS Trần Thành, chuyên ngành Chính trị học, nguyên Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
[1] Ông Trần Minh Tước tên thật là Nguyễn Văn Tước (1910-2003), nguyên Phó chủ tịch Ủy ban kháng chiến Liên khu Việt Bắc.
[2] Trần Thành, Xứ Lạng, tuổi thơ tôi – đôi dòng hoài niệm, báo Văn nghệ Xứ Lạng, số 240, 10-2013, tài liệu lưu giữ tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam.
[3],[4],[5],[6],[8],[10],[11],[12],[14] Phỏng vấn GS Trần Thành ngày 13-8-2016, tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt