Trên chiếc tàu Fe’lix Rousel từ Pháp về Việt Nam cuối năm 1946 có nhiều trí thức đã học tập ở Pháp từ thời gian trước đó. Họ là những người nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh bỏ lại sau lưng ánh sáng hoa lệ của nước Pháp để dấn thân vào cuộc trường kỳ kháng chiến, cùng sống, cùng khổ với đồng bào, quê hương.
Năm 1939, Lê Tâm[1] (tên thật là Nguyễn Hy Hiền) được học bổng sang Pháp học tại Montpellier. Cũng chính trên chuyến tàu Fe’lix Rousel năm ấy, cùng đi với ông còn có Lê Văn Thiêm[2], nhưng khi sang Pháp thì Lê Văn Thiêm học Toán học tại Toulouse. Hai người có mối quan hệ bạn bè rất thân thiết, mặc dù mỗi người một nơi nhưng họ vẫn thường xuyên thư từ qua lại, gặp gỡ và trao đổi với nhau về các vấn đề của toán học. Khi phái đoàn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng sang Pháp tham dự Hội nghị Fontainebleau (diễn ra từ tháng 7 đến tháng 9-1946), các ông cùng với các trí thức khác như: Phạm Huy Thông[3],… đã tích cực tham gia vào một số công việc phục vụ, hỗ trợ cho phái đoàn của Việt Nam. Theo Kỹ sư Lê Tâm, danh sách một số trí thức đang học tập, nghiên cứu tại Pháp sẽ về nước, đã được sự phê duyệt của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trước khi ông về nước.
Những ngày đầu tiên về nước
Cuối tháng 11-1946, Lê Tâm xuống tàu về nước cùng với 6 người khác là ông Hoàng Xuân Nhị[4], Thạc sĩ Văn học ở Pháp; ông Trần Văn Du, bác sĩ; ông Nguyễn Ngọc Nhật, kỹ sư cơ khí ở Paris; ông Lê Văn Võ, kỹ sư hóa chất; ông Nguyễn Văn Thoại, nhà nghiên cứu về sinh hóa học. Còn một số khác cũng nằm trong danh sách nhưng xin về sau vì còn đang tiếp tục học tập hoặc đang làm luận án. Trong số đó có ông Nguyễn Khắc Viện; Lê Văn Thiêm; Trần Đức Thảo[5] (Triết học); Phạm Huy Thông (Lịch sử và Địa lý), Lê Viết Hường (Kỹ sư cơ khí), Nguyễn Văn Phúc (Thiết kế máy bay),…
Ngày 3-1-1947, tàu Fe’lix Rousel[6] đến Vũng Tàu rồi tiếp tục hành trình về cảng Sài Gòn. Kỹ sư Lê Tâm nhớ lại khoảnh khắc khi được trở lại Tổ quốc sau nhiều năm học tập trên đất khách quê người: “Tất cả anh em Việt Nam chúng tôi đều hết sức cảm động muốn khóc khi thấy lại được núi sông của Tổ quốc sau hàng chục năm xa cách, nhất là biết Tổ quốc đang lâm nguy và anh em chúng tôi nguyện sẽ phải đóng góp một phần xương máu trong cuộc đấu tranh sắp đến, vì chúng tôi đã quyết định như vậy khi tàu đỗ ở Singapore”. Đến cảng Sài Gòn, một nhân viên hải quan Pháp gặp các ông thông báo: “Các anh đã đến Sài Gòn. Chúng tôi biết tất cả các anh sẽ phải ra Hải Phòng, vì các anh là cán bộ của Chính phủ Hồ Chí Minh. Nhưng tiếc thay mới cách đây mấy ngày, Ông (Hồ Chí Minh) đã tuyên bố đánh nhau với quân đội Pháp, cho nên tình hình ở Hải Phòng không tốt, tàu chúng tôi không thể đưa các anh ra ngoài đấy được mà phải đợi cho đến khi tình hình yên ổn trở lại”. Trước tình hình đó, những anh em người Việt Nam đã bàn bạc với nhau về những việc cần thực hiện và sắp xếp chỗ ăn ở trong những ngày trú tạm ở Sài Gòn.
Riêng Kỹ sư Lê Tâm, trước khi về nước đã được ông Trần Lê Quang, một người bạn rất thân ở trường Cầu Đường tại Pháp viết thư giới thiệu về gia đình ở Sài Gòn. Đến nhà bạn mình, Lê Tâm gặp bà Trần Thị Lành, chị gái của ông Trần Lê Quang, khi ấy là Hiệu trưởng trường Trung học Marie Curie. Ông được tiếp đón như người thân đã từng quen biết nhờ thư giới thiệu của ông Lê Quang, trong thư có kể về người bạn thân tên Nguyễn Hy Hiền. Từ đó, ông không phải lo lắng chuyện ăn nghỉ mà chỉ tính đến chuyện ra chiến khu bằng mọi cách.
Theo lịch hẹn, ba ngày sau, Lê Tâm và số trí thức từ Pháp trở về gặp nhau ở một quán cafe tại Sài Gòn. Ông Hoàng Xuân Nhị, người lớn tuổi nhất trong số này được giao nhiệm vụ giữ các giấy tờ mật liên lạc với chiến khu Nam Bộ, lo việc gặp các cán bộ ở Sài Gòn để nhờ chuyển các giấy tờ của nhóm này vào chiến khu. Sau cuộc gặp, trong khi chờ quyết định từ chiến khu, nhóm trí thức lại phân tán về các nơi trú ngụ, hẹn vào khoảng thời gian nhất định sẽ gặp nhau để bàn bạc tiếp công việc. Kỹ sư Lê Tâm cho biết, trước khi vào chiến khu thì việc sống và hoạt động bí mật ở Sài Gòn cũng rất quan trọng, nếu Pháp biết chuyện thì không những hại chính bản thân mình mà còn ảnh hưởng tới những gia đình đã cho các ông tá túc.
Phái đoàn Việt Nam những ngày tham dự Hội nghị Paris, Pháp, 1970.
Giáo sư Ngụy Như Kon Tum (ngoài cùng bên phải),
Kỹ sư Lê Tâm (thứ 2 từ phải qua)
Những ngày sau đó, Kỹ sư Lê Tâm sống ở gia đình bà Trần Thị Lành, ông đặt vấn đề với gia đình bà Lành rằng có lẽ phải ở lâu Sài Gòn rồi mới có thể ra Hải Phòng. Gia đình bà Lành rất chân thành: “Vậy anh sẽ ở với chúng tôi như là em Quang của tôi đã về đây, xin anh đừng ngại”. Ông ở lại gia đình và dạy cho các em trai, em gái của bà Lành chơi Violin, dạy làm toán, được gia đình quý mến. Thời gian đó, theo chủ trương của đoàn trí thức mới về nước, các ông chủ yếu đi chơi phố, qua các quán café để thăm dò tình hình,…
Hành trình gian nan mà thú vị
Sau một tháng ở Sài Gòn, ông Hoàng Xuân Nhị thông báo cho nhóm trí thức biết ông sẽ cùng với các ông: Trần Văn Du và Lê Văn Võ, Lê Tâm đi cùng một chuyến vào bưng biền, ông Nguyễn Ngọc Nhật sẽ đi chuyến sau vì được phép về thăm gia đình ở Bến Tre.
Đúng hẹn, Lê Tâm và ba đồng chí khác phải có mặt tại một địa chỉ riêng do bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng[7], Giám đốc Viện Pasteur Sài Gòn bố trí. Ông còn nhớ khi đó ông mặc bộ complê đẹp nhất và lần lượt, người trước người sau cách nhau độ 10 phút đến địa chỉ do bác sĩ Hưởng sắp đặt trước. Người dẫn đường cho các ông là ông Hồ Đắc Ân. Sau này Lê Tâm mới biết được ông Hồ Đắc Ân và Nguyễn Văn Hưởng, một là dược sĩ, một là bác sĩ nổi tiếng của Sài Gòn, là những người làm công tác liên hệ cho các ông vào chiến khu.
Đến điểm hẹn, các ông bắt đầu thay đổi hoàn toàn vẻ bề ngoài, bắt đầu một cuộc sống mới, gian khổ hơn, bỏ lại sau lưng toàn bộ sự hào nhoáng, phong lưu của một trí thức Tây học. Bác sĩ Hưởng đề nghị các ông thay các bộ comple và giày dép bằng các bộ đồ bà ba đã chuẩn bị sẵn cho mỗi người, mà để tránh sự phát hiện các bộ bà ba này là những bộ đồ cũ kỹ. Các đôi giày được thay bằng những đôi dép Trường Sơn làm từ lốp cao su, giống những đôi dép bộ đội của miền Bắc. Kỹ sư Lê Tâm nhớ lại: “Bác sĩ Hưởng cho chúng tôi ăn mỗi người một nắm xôi lạc chấm vừng, uống một cốc nước chè ngon rồi ông ta nói: Tôi xin từ giã các anh từ nay, các anh còn phải đi một chuyến đi vất vả rồi mới gặp được những vị đại diện của Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, đã chuẩn bị cho các anh công việc thích hợp, mong các anh đi đường bình an vô sự. Anh Hồ Đắc Ân nói thêm với chúng tôi rằng, đường đi nói chung là an toàn nhưng ta cũng đề phòng mọi bất trắc, các anh đừng nói chuyện với nhau to, phải chạy khi cần thiết và phải học cách rút giây cao su ở dép khi nó tuột bằng một cái que tre lép mà anh đưa cho mọi người. Rồi anh ta chúc chúng tôi gặp nhiều may mắn: Bon Voyage!”
Sau khi chia tay bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng và dược sĩ Hồ Đắc Ân, các ông Hoàng Xuân Nhị, Lê Tâm, Trần Văn Du và Lê Văn Võ được một người liên lạc ăn mặc bà ba cũ kỹ đến đưa đoàn đi tới địa điểm gặp các đồng chí ở Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ. Đoàn được đi trên một chiếc xe thảo mộ (xe ngựa nhỏ) thẳng tiến lên Thủ Đức. Ông kể:
“Đi được gần một tiếng, đến một chỗ hơi hoang vắng, anh liên lạc bảo người đánh xe dừng lại, nói riêng với chúng tôi anh đánh xe là người của mình, rồi nói như ra lệnh chúng tôi: “chạy theo tôi”. Thế là bốn người chúng tôi cắm đầu cắm cổ chạy theo anh liên lạc trên một khoảng đất không có đường, chỉ có đá sỏi, nhắm một bụi cây ở xa mà chạy. Khi tới bụi cây, anh liên lạc bảo có thể nghỉ trong bụi cây này; chúng ta vừa mới qua một đồn bốt giặc, chúng nó cứ nửa giờ thì ló đầu ra ngoài bắn xối xả, nhưng tôi đã biết giờ giấc của chúng nó nên tránh được. Anh ta vừa nói xong thì một loạt súng máy bắn xối xả từ một cái đồn bê tông nhỏ cách chúng tôi khoảng 200 mét… hết loạt súng này thì anh liên lạc bảo: ta đi tiếp, sau khi anh ta kiểm tra các dép Trường Sơn và giúp một hai anh bị tuột dép, có anh đã kêu đau vì bị đá nhọn làm bong móng. Anh liên lạc nói: các anh hãy cố gắng, còn hai chặng chạy như thế này nữa mới hết và đúng là chúng tôi đi đúng nửa tiếng thì lại phải chạy 10 phút như trước, đến hết chặng chạy cuối cùng chúng tôi vào một lùm tre mọc bên một con kênh nước chảy lờ đờ, cũng không biết con kênh đó bắt nguồn từ đâu và đi đến đâu nhưng anh liên lạc tươi cười bảo: con kênh này sẽ đưa các anh đến trụ sở Nam Bộ, không phải chỉ có nó mà còn nhiều con kênh khác nữa nhưng nó là con kênh đầu tiên. Rồi anh đưa chúng tôi vào trong một nhà tranh nhỏ, trong lùm tre.
Một người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi cũng ăn mặc bà ba nhưng đầu tóc chải khá mượt, tươi cười bước ra cổng chào chúng tôi. Ông tự giới thiệu: “Tôi là Hà Huy Giáp[8], được phân công đón các anh đến trụ sở của Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ. Chúng ta còn phải đi hơn một ngày nữa trên các kênh rạch của bưng biền. Đêm nay chúng ta sẽ ngủ trên thuyền và trưa mai mới đến. Anh mời chúng tôi uống nước và nghỉ ngơi khoảng 15 phút rồi anh nói: Tôi biết các anh đang rất mệt mỏi vì chạy cả buổi sáng nhưng chúng ta phải đi vì nếu địch biết, chúng ta sẽ bị chúng đuổi theo. Chúng tôi uống nước nghỉ ngơi và nói với nhau, hóa ra ở chiến khu thời khắc này còn ác liệt hơn ở Sài Gòn, nhưng người giao liên đưa chúng ta đi có vẻ vui tính, chắc cũng để làm cho chúng ta quên được mệt nhọc”
Mãi sau này, Lê Tâm mới biết ông Hà Huy Giáp là em trai của Hà Huy Tập, một lãnh tụ của Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Hà Huy Giáp khi đó là Xứ ủy viên Xứ ủy Nam kỳ chứ không phải là một người dẫn đường bình thường. Trước đó, ông Hà Huy Giáp cũng là một nhà báo nổi tiếng ở Sài Gòn. Trong chuyến đi, trên chiếc thuyền khá to của đoàn đi, ông Giáp kể nhiều chuyện ở chiến khu, lo tổ chức việc ăn ở cho anh em trong đoàn đi.
Kỹ sư Lê Tâm tiếp tục câu chuyện của chặng hành trình đặc biệt: “Tôi nhớ thuyền đi giữa một cánh đồng hoang vu vào lúc trời tối, anh Giáp đã cho ngưng thuyền lại giữa cánh đồng, mời tất cả anh em chúng tôi lên ngồi nghỉ trên bờ kênh và chứng kiến cảnh anh đốt lửa lùi sắn và nướng cá lóc trên ngọn lửa củi mà anh đã chuẩn bị sẵn. Thật là ấm áp và ngon lành. Đây là lần đầu tiên chúng tôi được ăn ngon như thế. Anh Hoàng Xuân Nhị (người thường dặn anh em chúng tôi không được nói to) đã không giữ được mình, hét lên: Ăn thế này còn hơn ăn tại Rex ở Sài Gòn… rồi chúng tôi phải ngủ đêm trên thuyền trong khi hai người chèo thuyền vẫn cùng nhau chèo hoặc thay đổi nhau để cho cuộc hành trình sớm đến đích. Đáng kinh sợ nhất là lúc thuyền bắt đầu đi vào Đồng Tháp Mười, nơi hoạt động chính của Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, nhưng cũng là nơi muỗi đặc như tương, thế mà thuyền chúng tôi phải đi trong môi trường đó suốt cả đêm mới đến trụ sở của Nam Bộ, dọc theo con kênh nổi tiếng Dương Văn Dương (thời Pháp gọi là kênh Langrange). Đến khoảng 10 giờ sáng hôm sau, chúng tôi mới đến được trụ sở đóng ở giữa kênh”.
Chuyến đi vào bưng biền kết thúc, nhưng nó lại mở ra cho những cuộc hành trình và những chuyến đi khác dài hơn ở phía trước. Những người thanh niên hăng say bước vào một cuộc sống mới, gian khổ, cái sống và cái chết có ranh giới mong manh. Ấy vậy, họ không bao giờ mảy may lo lắng về điều đó, không bao giờ hối hận vì đã từ bỏ nơi phồn hoa đô hội để dấn thân vào kháng chiến, phục vụ nhân dân, đất nước. Đúng như kỹ sư Lê Tâm đã khẳng định: “Chuyến đi nhớ mãi này mà bốn anh em chúng tôi đều đánh giá là hết sức quyết định cho cả đời mình cũng như rất thú vị và phần nào lãng mạn”.
Nguyễn Thanh Hóa (ghi)
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam
[1] Kỹ sư Lê Tâm (sinh năm 1921), nguyên Ủy viên Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước. Ông được Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996 cho công trình chế tạo thành công vũ khí SS (Súng rừng Sác) trong Kháng chiến chống Pháp.
[2] GS Lê Văn Thiêm (1918-1991) – nhà Toán học, nguyên Phó Hiệu trưởng trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho những công trình khoa học vào năm 1996.
[3] Giáo sư Phạm Huy Thông (1910-1988) – nhà thơ, nhà giáo, và nhà khoa học xã hội Việt Nam.
[4] GS Hoàng Xuân Nhị (1914-1990), nguyên Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
[5] GS Trần Đức Thảo (1917-1993) là Nhà Triết học của Việt Nam. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học xã hội năm 2000.
[6] Theo kỹ sư Lê Tâm, năm 1939 ông sang Pháp và năm 1946 ông về nước cũng đều chính trên con tàu mang tên Fe’lix Rousel.
[7] GS Nguyễn Văn Hưởng (1906-1998), nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế.
[8] Hà Huy Giáp (1908–1995), nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục, Thứ trưởng Bộ Văn hóa.