Giáo sư,TSKH Đặng Thu sinh ngày 1-7-1929 tại làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Sinh ra trong một ngôi làng khoa bảng, thừa hưởng truyền thống hiếu học của quê hương, GS.TSKH Đặng Thu vinh dự trong đoàn 49 người được Nhà nước cử đi học ở Liên Xô (1953-1960), và là một trong 10 người học ngành Y học.
Tốt nghiệp Đại học năm 1960, BS Đặng Thu tiếp tục được sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh. Trong quá trình làm luận án, ông đã có hơn 10 bài báo khoa học được công bố trên Tạp chí về Y học của Liên Xô. Năm 1964, ông bảo vệ luận án Phó Tiến sĩ với đề tài "Về sự định khu các chức năng ở vỏ não loài chuột" tại Viện Hoạt động thần kinh cao cấp và Sinh lý thần kinh, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, được Hội đồng bỏ phiếu công nhận 100%. Xét thấy công trình nghiên cứu của ông vượt phạm vi một luận án Phó Tiến sĩ, Hội đồng quyết định bỏ phiếu công nhận học vị Tiến sĩ cho đề tài nghiên cứu của ông, cũng đạt số phiếu 100%.
Năm 1964, sau khi hoàn thành và bảo vệ thành công luận án, TSKH Đặng Thu về nước, công tác tại Phòng Nghiên cứu Sinh vật học, Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước. Tháng 9-1966, ông cùng cán bộ đội khảo sát về động vật của Ủy ban đi thực địa tại huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng để điều tra tổng hợp những loại động thực vật hiện đang có ở nước ta. Ngoài việc khảo sát về động thực vật, tại đây, TSKH Đặng Thu còn được các đồng chí của Ủy ban huyện cho biết về tình hình có nhiều người "mất trí" ở nhiều xã trong huyện. Họ kiến nghị đoàn khảo sát giúp xác định nguyên nhân, định phương hướng phòng và chữa bệnh. Ông Đặng Thu đã tìm hiểu Danh sách cử tri đợt bầu cử Quốc hội khóa III, năm 1964 của các xã trong huyện, thấy số người không được đi bầu cử khá lớn bởi họ bị xếp vào số công dân mất trí. Bên cạnh đó, những đợt khám nghĩa vụ quân sự ở Cao Bằng cũng thấy nhiều thanh niên về thể chất thì khỏe mạnh, nhưng họ "chậm chạp, không khôn", vì vậy không đạt yêu cầu tuyển nghĩa vụ.
Trước thực tế trên, TSKH Đặng Thu đã tập trung nghiên cứu, tham khảo các tài liệu trong nước và ngoài nước về những biểu hiện nói trên. Ông thấy đây là vùng có nhiều người bị bệnh bướu cổ, có thể đó là căn nguyên của bệnh đần và ông tiếp tục đi sâu nghiên cứu.
Tháng 12-1966, TSKH Đặng Thu cùng ông Lã Hữu Đa – cán bộ Phòng Nghiên cứu Sinh vật học lên huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng để xác định kỹ hơn về bệnh đần và xem mức độ phổ biến của bệnh. Hai ông đã tìm đến những xóm bản có nhiều người mất trí, đến cả những bản xa xôi, hẻo lánh mà chưa có cán bộ y tế của xã. Ký ức không phai mờ trong ông là những ngày phải đi đêm để tránh bom trên những đường rừng đi lại rất khó khăn. "Ban ngày máy bay Mỹ ném bom, chúng tôi phải đi đêm bằng ô tô đến thị xã Cao Bằng. Có những lần chúng tôi phải ngủ lại cả đêm ở bến xe, chờ sáng hôm sau mới có xe tải đi về các huyện. Đường rừng đi lại khó khăn, chúng tôi đi bộ về các xã có khi tới vài chục cây số, trèo đèo lội suối, hoặc có lúc chúng tôi đi đường tắt, xuống thung lũng rồi lại đi ngược lên, có lúc tim tôi đập 140 nhịp/phút, mệt tới mức như vậy nhưng rất cố gắng đi. Gian khổ lắm"- GS.TSKH Đặng Thu hồi tưởng.
GS.TSKH Đặng Thu hồi tưởng về những ngày gian khổ để nghiên cứu, trị bệnh
Tháng 1-1967, ông Lã Hữu Đa tiếp tục đi sâu nghiên cứu ở một số xã của Bảo Lạc, còn TSKH Đặng Thu thì đi kiểm tra tình hình bệnh ở huyện Trùng Khánh và Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng. Để có đánh giá tổng thể về bệnh đần ở các tỉnh miền núi khác, tháng 3-1967, TSKH Đặng Thu và ông Lã Hữu Đa đã đến khảo sát các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Yên Bái, Hà Giang…, hai ông tiến hành nghiên cứu mức độ phát triển thần kinh ở những người đần và ở học sinh trong vùng bị bướu cổ qua máy phản xạ thần kinh chạy bằng pin, đồng thời thăm dò cách chữa và phòng bệnh. Đồng bào ở 64 bản thuộc các tỉnh trên mà các ông khám, điều tra chủ yếu thuộc dân tộc Nùng, ngoài ra còn có dân tộc Tày, Thái, Mường, Kinh, Mèo, Mán, Hoa, Nhắng, Lô Lô, Sán Chỉ…sống ở độ cao từ 100m đến 1850m.
Càng đi nhiều nơi, khó khăn càng nhiều nhưng với sức trẻ cộng với sự nhiệt tình và niềm đam mê nghiên cứu, TSKH Đặng Thu không chùn bước. Nhờ có cán bộ địa phương dẫn đường và phiên dịch, ông đã hiểu hơn về các đồng bào dân tộc miền núi, ăn uống, sinh hoạt hòa đồng cùng họ. Có những nơi, thổ phỉ vẫn còn nhưng các ông không hề nản chí.
Sau 2 năm (1966-1967), đã có 7314 người dân được ông khám bệnh, trong đó có 222 trường hợp bị mắc bệnh đần, chia ở 3 mức độ: nặng (31 người, chiếm 14%); trung bình (99 người, chiếm 44,5%); nhẹ (92 người, chiếm 41,4%). Có những nơi tỉ lệ dân số bị mắc bệnh đần chỉ 1-2%, nhưng có những nơi bị rất nặng tới 6-10,5%, cao nhất là ở xóm Ngàm Trạm, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng tới 16,6%. Tại đây có một chòm dân cư sống riêng biệt, ở 4 nóc nhà mà có tới 8 người bị bệnh đần (7 người do cán bộ địa phương xác định là mất trí không có quyền công dân, còn bệnh nhân khác là một em bé)[1].
Qua quá trình khảo sát, TSKH Đặng Thu nhận định những người sống ở miền núi đá vôi mắc bệnh đần nhiều hơn vì thiếu iốt so với những miền không có đá vôi. Những vùng tình trạng bướu cổ càng nặng thì bệnh đần càng phổ biến và ở đó có nhiều trẻ em bị phù niêm[2] rất điển hình, bị điếc, như vậy, theo ông, bệnh đần có tính địa phương. Sinh hoạt kém vệ sinh, mức sống của đồng bào còn thấp cũng đã phần nào ảnh hưởng tới phát sinh và tiến triển của bệnh…Không chỉ nghiên cứu ở các cá nhân mà ông còn nghiên cứu bệnh đần mang tính chất di truyền các thế hệ trong một gia đình.
Trăn trở trước thực trạng bệnh của đồng bào vùng núi phía Bắc
Song song với việc nghiên cứu, ông đã đề cập tới các biện pháp phòng tránh với phương pháp truyền thống là sử dụng muối iốt. Bên cạnh đó, ông còn đưa ra quan điểm chữa bướu giáp đơn thuần tốt nhất chỉ cần dùng hócmôn giáp hay bột tuyến giáp. Những bướu giáp to phải mổ, yêu cầu đội ngũ bác sĩ có trình độ về Ngoại khoa tốt cũng là một việc cấp bách. "Cậu Lã Hữu Đa phải đi tới chỗ mổ lợn lấy tuyến giáp, lọc mỡ ra, sấy khô, tán ra thành bột, mang đến cho họ uống, làm lâu dài thì tốt, nhưng phải có cơ sở sản xuất vì lúc đó chưa ai thực hiện những việc như vậy"- GS.TSKH Đặng Thu kể.
Toàn bộ các kết quả nghiên cứu, được ông tổng hợp lại, báo cáo lên lãnh đạo Đảng và Chính phủ, Bộ Y tế cùng lãnh đạo các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta (1967); Bài viết "Về bệnh bướu giáp địa phương và bệnh đần ở miền núi phía Bắc Việt Nam" của ông được công bố trên Tạp chí Y học Việt Nam, số 1, năm 1968.
Trăn trở trước thực trạng bệnh đần ở nước ta, TSKH Đặng Thu đã tổng hợp toàn bộ những nghiên cứu thực tế làm thành bản thảo sách "Bệnh bướu giáp địa phương và bệnh đần địa phương", gồm 207 trang, in rônêo vào năm 1972. Mục đích nhằm phổ biến cơ sở khoa học cần thiết cho các địa phương có bệnh, đánh giá đúng mức độ nặng nhẹ của vùng bệnh, góp phần vào việc nhanh chóng loại trừ bệnh trong cộng đồng dân cư ở vùng núi nước ta. Ông đã gửi bản thảo này tới GS Hoàng Đình Cầu-Thứ trưởng Bộ Y tế. Giáo sư Cầu viết thư trả lời nếu in thành sách để phổ biến về bệnh đần thì rất tốt.
Năm 1972, TSKH Đặng Thu chuyển sang công tác tại Bệnh viện E, phụ trách nghiên cứu về sốt rét ở các cán bộ, chiến sĩ…từ miền Nam ra, thêm vào đó do điều kiện kinh tế khó khăn lúc bấy giờ nên bản thảo về bệnh Đần của ông chưa được xuất bản, chỉ phổ biến trong phạm vi chuyên ngành hẹp. "Tôi biếu tài liệu nghiên cứu về bệnh bướu giáp địa phương và bệnh đần ở miền núi phía Bắc Việt Nam cho Bệnh viện Nội tiết[3], họ sử dụng theo từng phần, giao cho mỗi người để tham khảo"- GS.TSKH Đặng Thu cho biết.
Ngày nay, những tiến bộ vượt bậc của Y học hiện đại có thể đã vượt qua những nghiên cứu trong công trình của GS.TSKH Đặng Thu thời kỳ đó. Nhưng những ký ức về những ngày tháng gian nan lên miền núi, miệt mài nghiên cứu về bệnh bướu và bệnh đần trong đồng bào vùng sâu vùng xa sẽ không phai mờ trong tâm trí ông.
Hoàng Thị Liêm
___________________
[1] Trích trong Bản thảo in rônêo "Bệnh bướu giáp địa phương và bệnh đần địa phương" của GS.TSKH Đặng Thu, 1972.
[2] Phù niêm là biểu hiện nặng của giảm năng tuyến giáp: mặt hơi phị, mi mắt phù, mắt híp lại, trán, má, mũi phù, phù lang xuống tới cổ do khó quay, những hõm trên xương đòn đẩy lên như khi béo mỡ. Phù có thể toàn thân… (Trích trong Bản thảo in rônêo "Bệnh bướu giáp địa phương và bệnh đần địa phương" của GS.TSKH Đặng Thu, 1972.
[3] Bệnh viện Nội tiết thành lập năm 1969.